Samstag, 5. April 2014

Nhìn lại nền Giáo dục VNCH : Sự tiếc nuối vô bờ bến




Sách giáo khoa thời VNCH
Sách giáo khoa thời VNCH
Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là nhân bản, dân tộc, và khai phóng. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và cho rằng “nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí”, “nền giáo dục đại học được tự trị”, và “những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”.
Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm tiểu học, trung học, và đại học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới địa phương.
1468720_354694488000497_1492264788_n
Phòng thí nghiệm ở Viện Pasteur Sài Gòn (Internet)

Tổng quan

Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng Campuchia. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học. Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào năm 1945, chương trình học của Việt Nam – còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn (ban hành thời chính phủ Trần Trọng Kim - được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc.
Riêng ở miền Nam, vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa thì chương trình Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của mình.
PKý lễ
Một buổi lễ khánh thành tượng Petrus Ký trong khuôn viên ( công viên 30/4 hiện tại ), nằm trên đường Boulevard Norodom – ( Đại Lộ Thống Nhất trước Dinh Độc Lập, hướng về Nhà Thờ Đức Bà ).
 Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ Nhất Cộng Hòa, những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị.
Nhìn chung, người ta thấy mô hình giáo dục ở Miền Nam Việt Nam trong những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn.
Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa có một phần năm (20%) dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trunghọc, và 101.454 sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số. Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người(không tính các sinh viên theo học ở Học viện Hành Chính Quốc Gia và ở các trường đại học cộng đồng).
Cảnh giờ rước học sinh.
Cảnh giờ rước học sinh tan trường.
Mặc dù tồn tại chỉ trong 20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển.
Kết quả này có được là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm nhường để đóng góp trọn vẹn cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở Miền Nam Việt Nam.
750Thay_Co_truong_QGNT
Thầy cô giáo ( Giáo sư ) thời VNCH

Triết lý giáo dục

Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hựu Thế, Việt Nam Cộng Hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật… Ba nguyên tắc “nhân bản” (humanistic), “dân tộc” (nationalistic), và “khai phóng” được chính thức hóa ở hội nghị này.
Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa, được ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trongHiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967).
vnch-giao-duc6
Khóa Hội Thảo Cải Tổ Chương Trình Sư Phạm.
1. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục nhân bản.
Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốclấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác.
Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá conngười, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
vnch-giao-duc1 (1)
2. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục dân tộc.
Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác.
Sinh viên đại học Dược Khoa Sài Gòn gói bánh chưng để đem giúp đồng bào miền Trung bị bão lụt năm Thìn 1964
Sinh viên đại học Dược Khoa Sài Gòn gói bánh chưng để đem giúp đồng bào miền Trung bị bão lụt năm Thìn 1964.
3. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục khai phóng.
Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.
Từ những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đề ra những mục tiêu chính sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ trở nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân loại.

Mục tiêu giáo dục thời VNCH:

Bích chương của Bộ Y Tế VNCH
Bích chương của Sở Giáo Dục – Bộ Y Tế VNCH
1. Phát triển toàn diện mỗi cá nhân.
Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, hướng đi định sẵn nào.
Thanh nữ VNCH
Thanh nữ Việt Nam Cộng Hòa
2. Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh.
Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.
Người dân miền Nam biểu tình phản đối Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, năm 1974
Người dân miền Nam biểu tình phản đối Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, năm 1974.
3. Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học.
Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể; giúp học sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả năng tiếp nhận nhữnggiá trị văn hóa của nhân loại.
Mặt tiền của Viện Đại Học Sài Gòn (Số 3 Công Trường  chiến sĩ)
Mặt tiền của Viện Đại Học Sài Gòn (Số 3 Công Trường
Chiến Sĩ)

Giáo dục tiểu học:

Học sinh lớp Nhất, lớp Nhì hồi xưa.
Một lớp tiểu học ở miền Nam vào năm 1961.
Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ Nhất Cộng Hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất).   Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập (bắt buộc). Từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học. Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học “đúp”, tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Số liệu giáo dục bậc tiểu học[8]
Niên họcSố học sinhSố lớp học
1955400.8658.191
1957717.198[9]
19601.230.000[9]
19631.450.67930.123
19641.554.063[10]
19702.556.00044.104
Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều.
Vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng Hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học, chiếm hơn 80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi; 5.208 trường tiểu học (chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long và Sa Đéc).
Học sinh lớp Nhất, lớp Nhì hồi xưa.
Học sinh lớp Nhất, lớp Nhì hồi xưa – ( Lớp Bốn lớp Năm bây giờ ).
Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường công lập hay tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục.
Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn Quốc văn; 2 giờ Bổn phận công dân và Đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục). Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư), Quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ Sử ký và Địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn Quốc văn, Công dân và Sử Địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần.
Giờ sinh hoạt của toàn trường thời bấy giờ.
Giờ sinh hoạt của toàn trường thời bấy giờ.
Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết).
Thẻ căn cước học sinh trường Võ Trường Toản
Thẻ căn cước học sinh trường Võ Trường Toản

 Giáo dục trung học:

Các vị Giáo Sư trường Hồ Ngọc Cẩn
Các vị Giáo Sư trường Hồ Ngọc Cẩn
Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức hơn 20% tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18; có 534 trường trung học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc).
Đến năm 1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ở các trường trung học công lập. Các trường trung học công lập nổi tiếng thời đó có Petrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long, Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường Chasseloup Laubat, Quốc Học (Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)…
Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Tên gọi năm lớp bậc tiểu học
trước 1971sau 1971
lớp nămlớp một
lớp tưlớp hai
lớp balớp ba
lớp nhìlớp tư
lớp nhấtlớp năm
Tên các lớp bậc trung học đệ nhất cấp
lớp đệ thấtlớp sáu
lớp đệ lụclớp bảy
lớp đệ ngũlớp tám
lớp đệ tứlớp chín
Tên các lớp trung học đệ nhị cấp
lớp đệ tamlớp mười
lớp đệ nhịlớp 11
lớp đệ nhấtlớp 12
Một lớp thử nghiệm hoá chất tại trường Petrus Ký
Một lớp thử nghiệm hoá chất tại trường Petrus Ký
Trung học đệ nhất cấp:
Trường Trung học Cộng đồng Quận 8 năm 72- 73
Trường Trung học Cộng đồng Quận 8 năm 72- 73
Trung học đệ nhất cấp bao gồm từ lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1971 gọi là lớp đệ thất đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện nay. Từ tiểu học phải thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường trung học công lập không dễ. Các trường trung học công lập hàng năm đều tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1971 gọi là lớp 6), kỳ thi có tính chọn lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng 62%); tại một số trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%.
Những học sinh không vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải trả học phí. Một năm học được chia thành hai “lục cá nguyệt” (hay “học kỳ”). Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ, thường là tiếng Anh hay tiếng Pháp, môn Công dân giáo dục tiếp tục với lượng 2 giờ mỗi tuần.
Từ năm 1966 trở đi, môn võ Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào giảng dạy ở một số trường.
Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp. Kỳ thi này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp.
Năm 1959 bỏ phần vấn đáp rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ thi Trung học đệ nhất cấp.
Sân trường Marie Curie
Sân trường Marie Curie
Trung học đệ nhị cấp:
Nam sinh Võ Trường Toản
Nam sinh Võ Trường Toản
Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 11 và 12, trước 1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất; tương đương trung học phổ thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung học đệ nhất cấp, tức bằng Trung học cơ sở.
Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn học theo một trong bốn ban như dự bị vào đại học. Bốn ban thường gọi A, B, C, D theo thứ tự là Khoa học thực nghiệm hay còn gọi là ban vạn vật; ban toán; ban văn chường và ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn. Ngoài ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai.
Vào năm lớp 11 thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài phổ thông. Thí sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn Thể dục), đề thi gồm các nội dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ bớt. Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn.
Số liệu giáo dục bậc trung học[8]
Niên họcSố học sinhSố lớp học
195551.465890
1960160.500[9]
1963264.8664.831
1964291.965[10]
1970623.0009.069
Mỗi năm có hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8.
Tỷ lệ đậu Tú tài I (15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập nhìn chung tỷ lệ đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã được sàng lọc qua kỳ thi vào lớp 6 rồi. Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá thấp nên vào được đại học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp thành: Hạng “tối ưu” hay “ưu ban khen” (18/20 điểm trở lên), thí sinh đậu Tú tài II hạng tối ưu thường hiếm, mỗi năm toàn Việt Nam Cộng Hòa chỉ một vài em đậu hạng này, có năm không có; hạng “ưu” (16/20 điểm trở lên); “bình”(14/20); “bình thứ” (12/20), và “thứ” (10/20).
Thầy trò trường Gia Long
Thầy trò trường nữ Gia Long
Một số trường trung học chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì có trường Petrús Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và các trường Quốc học (Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Võ Tánh (Nha Trang), Trần Hưng Đạo (Đà Lạt), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) dành cho nam sinhvà các trường Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học Đồng Khánh (Huế), Trường Nữ Trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho), Trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) chỉ dành cho nữ sinh.
Học sinh trung học lúc bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài trắng, quần trắng hay đencòn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu xanh dương.
Nữ sinh Lê Văn Duyệt
Nữ sinh Lê Văn Duyệt
Trung học tổng hợp:
Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school) là mộtchương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John Dewey,sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ Giáo dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn, kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v… nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi rời trường trung học. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị những môn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống.
Thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung học tổng hợp, nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức (khai giảng niên khóa đầu tiên vào tháng 10 năm 1965) , sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và Sương Nguyệt Ánh (cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng Binh Lễ ở Long Xuyên.
Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang (cầm đàn) trong một buổi sinh hoạt của nhóm Du Ca với các học sinh trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức vào cuối thập niên 1960
Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang (cầm đàn) trong một buổi sinh hoạt của nhóm Du Ca với các học sinh trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức vào cuối thập niên 1960
Bổ sung ( theo góp ý của đọc giả Nguyễn ):
Ở Huế: Ngày 4-8-1964 trường Đại Học Sư Phạm Huế đã thành lập một trường
Trung-học trực thuộc mang tên Trung Học Kiểu Mẫu Huế (khai giảng niên khóa đầu tiên gồm 8 lớp, 320 học sinh, 24 nhà giáo, 7 nhân viên, với hiệu trưởng Trần Kim Nở).
Ở Cần Thơ: Năm 1966, Trung học Kiểu mẫu Cần Thơ được thành lập thuộc Phân khoa Sư phạm của Viện Đại học Cần Thơ.
Cổng trường Trung Học Kiểu Mẫu Huế 1964-1975
Cổng trường Trung Học Kiểu Mẫu Huế 1964-1975
Trung học kỹ thuật:
Trường Quốc-Gia Nông-Lâm-Mục B'Lao
Trường Quốc-Gia Nông-Lâm-Mục B’Lao
Các trường trung học kỹ thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp việc dạy nghề với giáo dục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung học kỹ thuật thường được cấp học bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi tuần học 42 giờ; hai môn ngoại ngữ bắt buộc là tiếng Anh và tiếng Pháp.
Các trường trung học kỹ thuật có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công lập thì có Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân là Trường Cơ khí Á châu thành lập năm 1906 ở Sài Gòn; nay là Trường Cao Đẳng Kỹ Thuật Cao Thắng), Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ;  tư thục thì có Trường Trung học Kỹ thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia Định; nay là Trường Đại Học Công Nghiệp TPHCM).
Hiệu trưởng Cao thanh Đảnh và các Giáo Sư trường trung học kỹ thuật Cao Thắng.
Hiệu trưởng Cao Thanh Đảnh và các Giáo Sư trường trung học kỹ thuật Cao Thắng.

Các trường tư thục và Quốc Gia Nghĩa Tử

Các trường tư thục và Bồ đề:

Lễ kỷ niệm 100 năm thành lập của trường Lasan Taberd 17 tháng 2 năm 1974
Lễ kỷ niệm 100 năm thành lập của trường Lasan Taberd 17 tháng 2 năm 1974
Ngoài hệ thống trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục. Vào năm 1964 các trường tư thục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học. Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu học và 77,6% học sinh trung học.
Con số này tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học. Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh; Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi (Nữ vương Thế giới) dành cho nữ sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều hành của Giáo Hội Công Giáo.
Sân trường Bác ái (Collège Fraternité)
Sân trường Bác ái (Collège Fraternité)
Trường Bác ái (Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là người Việt gốc Hoa cũng là một tư thục có tiếng do các thương hội người Hoa bảo trợ. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có hệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ Đề ở nhiều tỉnh thành, tính đến năm 1970 trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65 trường trung học với tổng số học sinh là 58.466.
Ngoài ra còn có một số trường do chính phủ Pháp tài trợ như Marie Curie, Colette, và Saint-Exupéry. Kể từ năm 1956, tất cả các trường học tại Việt Nam, bất kể trường tư hay trường do ngoại quốc tài trợ, đều phải dạy một số giờ nhất định cho các môn quốc văn và lịch sử Việt Nam.
Chương trình học chính trong các trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục đã đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm.
Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tổng cộng có 1.087 trường tư thục ở miền Nam Việt Nam bị giải thể và trở thành trường công (hầu hết mang tên mới).
Le Collège Fraternité - Bac Ai datant de 1908, se situe 4 - rue Nguyên Trai, Cho Quan.
Le Collège Fraternité – Bac Ai datant de 1908, se situe 4 – rue Nguyên Trai, Cho Quan.
Các trường Quốc Gia Nghĩa Tử:
Saigon 17 March 1971 - Bà Nguyễn Văn Thiệu dự lễ khánh thành Thư viện trường Quốc Gia Nghĩa Tử.
Saigon 17 March 1971 – Bà Nguyễn Văn Thiệu dự lễ khánh thành Thư viện trường Quốc Gia Nghĩa Tử.
Ngoài hệ thống các trường công lập và tư thục kể trên, Việt Nam Cộng Hòa còn có hệ thống thứ ba là các trường Quốc gia nghĩa tử. Tuy đây là trường công lập nhưng không đón nhận học sinh bình thường mà chỉ dành riêng cho các con em của tử sĩ hoặc thương phế binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như là một đặc ân của chính phủ giúp đỡ không chỉ phương tiện học hành mà cả việc nuôi dưỡng.
Hệ thống này bắt đầu hoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn, sau khai triển thêm ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế, và Biên Hòa. Tổng cộng có 7 cơ sở với hơn 10.000 học sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến binh quản lý chứ không phải Bộ Quốc gia Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo trình của Bộ Quốc gia Giáo dục.
Chủ đích của các trường Quốc gia nghĩa tử là giáo dục phổ thông và hướng nghiệp cho các học sinh chứ không được huấn luyện quân sự. Vì vậy trường Quốc gia nghĩa tử khác trường Thiếu sinh quân. Sau năm 1975, các trường quốc gia nghĩa tử cũng bị giải thể.

Giáo dục đại học:
VienDaiHocVanHanh Saigon
Học sinh đậu được Tú tài II thì có thể ghi danh vào học ở một trong các viện Đại Học, trường Đại Học, và học viện trong nước. Tuy nhiên vì số chỗ trong một số trường rất có giới hạn nên học sinh phải dự một kỳ thi tuyển có tính chọn lọc rất cao; các trường này thường là  Y, Dược, Nha, Kỹ Thuật, Quốc gia hành chánh và Sư Phạm.
Việc tuyển chọn dựa trên khả năng của thí sinh, hoàn toàn không xét đến lý lịch gia đình. Sinh viên học trong các cơ sở giáo dục công lập thì không phải đóng tiền. Chỉ ở một vài trường hay phân khoa đại học thì sinh viên mới đóng lệ phí thi vào cuối năm học. Ngoài ra, chính phủ còn có những chương trình học bổng cho sinh viên.
Trong khuôn viên Học viện Quốc gia Hành chánh
Trong khuôn viên Học viện Quốc gia Hành chánh
Số liệu giáo dục bậc đại học:
Niên họcSố sinh viên
1960-6111.708[45]
196216.835[10]
196420.834[10]
1974-75166.475[46]
Chương trình học trong các cơ sở giáo dục đại học được chia làm ba cấp. Cấp 1 (học 4 năm): Nếu theo hướng các ngành nhân văn, khoa học, v.v.. thì lấy bằng Cử nhân (ví dụ: cử nhân Triết, cử nhân Toán…); nếu theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng Tốt nghiệp (ví dụ: bằng tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh…) hay bằng Kỹ sư (ví dụ: kỹ sư Điện, kỹ sư Canh nông…). Cấp 2: học thêm 1-2 năm và thi lấy bằng Cao học hay Tiến sĩ đệ tam cấp (tiếng Pháp: docteurde troisième cycle; tương đương Thạc sĩ ngày nay). Cấp 3: học thêm 2-3 năm và làm luận án thì lấy bằng Tiến sĩ (tương đương với bằng Ph.D. của Hoa Kỳ).
Riêng ngành y, vì phải có thời gian thực tập ở bệnh viện nên sau khi học xong chương trình dự bị y khoa phải học thêm 6 năm hay lâu hơn mới xong chương trình đại học.

Bổ sung của đọc giả Trần Thạnh (26.12.2013):

VNCH có nhiều trí thức tốt nghiệp từ Pháp và Hoa Kỳ nên có hai hệ thống bằng cấp khác nhau:
normale11
Thạc Sĩ người Việt đầu tiên là ông Phạm Duy Khiêm, bào huynh của nhạc sĩPhạm Duy.
Ecole Normale Supérieure
Ðánh dấu hoa* là ôngPhạm Duy Khiêm. Ðánh dấu X là TT Pháp Georges Pompidou
Theo hệ thống của Pháp (ngày trước):
-  Cử Nhân (Licencié), Cao học (DEA), Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp (Doctorat de 3è cycle), Tiến Sĩ Quốc Gia (Doctorat d’État).
Theo hệ thống của Hoa Kỳ:
- Cử Nhân (Bachelor), Master (trước 1975 chưa có từ ngữ dịch chính xác bằng cấp này), Tiến Sĩ(PhD).
Khó có thể so sánh Master và Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp vì học trình hai bên khác nhau.   ( Hiện nay trong nước dịch Master là Thạc Sĩ gây hiểu lầm cho nhiều người ).
Từ “ Thạc Sĩ ” trước đây được dùng để chỉ những người thi đậu một kỳ thi rất khó của Pháp (agrégation). Người thi đậu được gọi là Agrégé. Không có từ tiếng Anh tương đương cho từ này.
Luat Khoa Sai gon
Đại học Luật khoa Sài Gòn

Mô hình các cơ sở giáo dục đại học:

Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hòa được tổ chức theo mô hình Viện đại học (theo Việt-Nam Tự-Điển của Hội khai trí Đức Tiến: Viện = Nơi, sở).
Đây là mô hình tương tự như university của Hoa Kỳ và Tây Âu, cùng với nó là hệ thống đào tạo theo tín chỉ (tiếng Anh: credit). Mỗi viện đại học bao gồm nhiều Phân khoa đại học (tiếng Anh: faculty; thường gọi tắt là phân khoa, ví dụ: Phân khoa Y, Phân khoa Sư phạm, Phân khoa Khoa học, v.v…) hoặc Trường hay Trường Đại học (tiếng Anh: school hay college; ví dụ: Trường Đại học Nông nghiệp, Trường Đại học Kỹ thuật, v.v…).
Trong mỗi Phân khoa Đại học hay Trường Đại học có các ngành (ví dụ: ngành Điện tử, ngành Công chánh, v.v…); về mặt tổ chức, mỗi ngành tương ứng với một ban (tiếng Anh: department; tương đương với đơn vị khoa hiện nay).
Đại học sư phạm kỹ thuật Thủ Đức
Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật
Về mặt tổ chức, viện đại học của Việt Nam Cộng Hòa duy trì đường lối phi chính trị của các đại học Tây Phương. Các khoa trưởng của các trường phân khoa không do Bộ Quốc gia Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo sư của Hội đồng Khoa bầu lên.
Trong hai thập niên 1960 và 1970, lúc hội nghị Hòa Bình đang diễn ra ở Paris, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ráo riết lên kế hoạch tái thiết sau chiến tranh, với viễn cảnh là hòa bình sẽ lập lại ở Việt Nam, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập, người lính từ các bên trở về cần được đào tạo để tái hòa nhập vào xã hội. Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai mô hình cơ sở giáo dục đại học mới và mang tính thực tiễn được hình thành, đó là trường đại học cộng đồng và viện đại học bách khoa.
Trường đại học cộng đồng là một cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành; sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học lớn, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc.
Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình giáo dục này là một nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào một luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Southern California vào năm 1970 với tựa đề The Community College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái niệm trường đại học cộng đồng:Nghiên cứu sự phù hợp của nó với công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam).
Cơ sở đầu tiên được hình thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang, thành lập vào năm 1971 ở Định Tường sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng trong dân chúng.
25-khach_vieng_truong_01
Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật
Vào năm 1973, Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (tên tiếng Anh: Thủ Đức Polytechnic University, gọi tắt là Thủ Đức Poly) được thành lập. Đây là một cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh vực, và chú trọng đến các ngành thực tiễn. Trong thời gian đầu, Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức có các trường đại học chuyên về Nông Nghiệp, Kỹ Thuật, Giáo Dục, Khoa Học và Nhân Văn, Kinh tế và Quản trị, và Thiết kế đô thị; ngoài ra còn có trường đào tạo sau đại học.
Theo kế hoạch, các cơ sở giáo dục đều được gom chung lại trong một khuôn viên rộng lớn, tạo một môi trường gợi hứng cho trí thức suy luận, với một cảnh trí được thiết kế nhằm nâng cao óc sáng tạo; quản lý hành chính tập trung để tăng hiệu năng và giảm chi phí.
Trường Sư phạm, thuộc Viện ĐH Sài gòn
Trường Sư phạm, thuộc Viện ĐH Sài gòn
Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hoà xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, toàn bộ các cơ sở giáo dục đại học thời Việt Nam Cộng hòa bị đổi tên và bị phân tán theo khuôn mẫu giáo dục của Liên Xô nên không còn mô hình theo đó các trường hay phân khoa đại học cấu thành viện đại học, mà mỗi trường trở nên biệt lập.
Giáo dục đại học Việt Nam dưới các chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình phân tán ngành học. Các “trường đại học bách khoa” được thành lập dưới hai chính thể này ( Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách Khoa TPHCM, và Trường Đại Học Bách Khoa Đà Nẵng) không giống như mô hình viện đại học bách khoa vì chỉ tập trung vào các ngành kỹ thuật tương tự, mô hình “trường đại học tổng hợp” (Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội, Trường Đại Học Tổng Hợp TPHCM và Trường Đại Học Tổng Hợp Huế) cũng chỉ tập trung vào các ngành khoa học cơ bản, chứ không mang tính chất toàn diện.
Đến đầu thập niên 1990, chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập 2 “đại học” cấp quốc gia và 3 “đại học” cấp vùng theo mô hình gần giống như mô hình viện đại học. Vào tháng 10 năm 2009, một số đại biểu của Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam đưa ra đề nghị gọi tên các “đại học” cấp quốc gia và cấp vùng là “viện đại học”.

Các viện đại học công lập:

Viện Đại Học Sài Gòn: Tiền thân là Viện Đại Học Đông Dương (1906), rồi Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam (1955)– còn có tên là Viện Đại học Quốc gia Sài Gòn. Năm 1957, Viện Đại học Quốc Gia Việt Nam đổi tên thành Viện Đại học Sài Gòn. Đây là viện đại học lớn nhất nước. Trước năm 1964, tiếng Việt lẫn tiếng Pháp được dùng để giảng dạy ở bậc đại học, nhưng sau đó thì chỉ dùng tiếng Việt mà thôi theo chính sách ngôn ngữ theo đuổi từ năm 1955. Riêng Trường Đại Học Y Khoa dùng cả tiếng Anh.
Vào thời điểm năm 1970, hơn 70% sinh viên đại học trên toàn quốc ghi danh học ở Viện Đại học Sài Gòn.
Viện Đại Học Huế: Thành lập vào tháng 3 năm 1957 với 5 phân khoa đại học: Khoa học, Luật, Sư phạm, Văn khoa, và Y khoa.
Hàng đầu bên trái ông Nguyễn Đăng Trình Bộ trưởng Bộ QG Giáo dục , Viện trưởng Viện Đại học Huế đầu tiên ( tháng 3/1957-7/1957 ) Giữa Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm , bên phải Linh mục Giáo sư Cao Văn Luận Viện trưởng Viện Đại học Huế từ 7/1957-1965
Hàng đầu bên trái ông Nguyễn Đăng Trình Bộ trưởng Bộ QG Giáo dục, Viện trưởng Viện Đại học Huế đầu tiên ( tháng 3/1957-7/1957 ). Giữa Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm , bên phải Linh mục Giáo sư Cao Văn Luận Viện trưởng Viện Đại học Huế từ 7/1957-1965.
Viện Đại Học Cần Thơ: Thành lập năm 1966 với 4 phân khoa đại học: Khoa học, Luật khoa & Khoa học Xã hội, Sư phạm, và Văn khoa.
Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức: Thành lập năm 1974. Tiền thân là Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật (1957), Học viện Quốc gia Kỹ thuật (1972).

Các viện đại học tư thục:

Viện Đại Học Đà Lạt: Thành lập ngày 8tháng 8 năm 1957. Một phần cơ sở của Viện Đại học Đà Lạt nguyên là một chủng viện của Giáo hội Công Giáo. Viện đại học này có 4 phân khoa đại học: Chính trị Kinh doanh, Khoa học, Sư phạm, Thần học và Văn khoa. Theo ước tính, từ năm 1957 đến 1975  viện đại học này đã giáo dục 26.551 người.
Viện Đại học Đà lạt
Viện Đại học Đà lạt
Viện Đại Học Vạn Hạnh: Thuộc khối Ấn Quang của Giáo hội phật giáo hội Việt Nam Thống Nhất; thành lập ngày 17 tháng 10 năm 1964 ở số 222 đường Trương Minh Giảng (sau 1975 là đường Lê Văn Sỹ), Quận 3, Sài Gòn-Gia Định với 5 phân khoa đại học: Giáo dục, Phật Học, Khoa Học Xã hội, Khoa học ứng dụng, và Văn học & Khoa học nhân văn. Vào đầu thập niên 1970, Vạn Hạnh có hơn 3.000 sinhviên.
Lễ phát bằng Cử Nhân của Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1973
Lễ phát bằng Cử Nhân của Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1973
Viện Đại Học Phương Nam: Được cấp giấy phép năm 1967 tọa lạc ở số 16 đường Trần Quốc Toản (sau năm 1975 là đường 3/2 ), quận 10, Sài Gòn. Viện đại học này thuộc khối Việt Nam Quốc Tự của Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo sư Lê Kim Ngân làm viện trưởng.
Viện Đại học Phương Nam có 3 phân khoa đại học: Kinh tế-Thương mại, Ngoại ngữ, và Văn khoa. Vào thập niên 1970, viện đại học này có khoảng 750 sinh viên ghi danh.
Thư viện Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn
Thư viện Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn
Viện Đại Học An Giang (Hòa Hảo): Thành lập năm 1970 ở Long Xuyên với 5 phân khoa đại học: Văn khoa, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao Quốc tế, Khoa học Quản trị và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo.
Viện Đại Học Cao Đài: Thành lập năm 1971 trên đường Ca Bảo Đạo ở Tây Ninh với 3 phân khoa đại học: Thần học Cao Đài, Nông lâm mục, và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Cao Đài.
Viện Đại Học Minh Đức: Được cấp giấy phép năm 1972, trụ sở ở Sài Gòn với 5 phân khoa đại học: Kỹ thuật Canh nông, Khoa học Kỹ thuật, Kinh tế Thương mại, Nhân văn Nghệ thuật, và Y Khoa. Viện Đại học này do Giáo hội Công Giáo điều hành.

Các học viện và viện nghiên cứu:

Viện Pasteur Nha Trang
Viện Pasteur Nha Trang
Học Viện Quốc Gia Hành Chính: Cơ sở này được thành lập từ thời Quốc Gia Việt Nam với văn bản ký ngày 29 tháng 5 năm 1950 nhằm đào tạo nhân sự chuyên môn trong lãnh vực công quyền như thuế vụ và ngoại giao. Trường sở đặt ở Đà Lạt; năm 1956 thì dời về Sài Gòn đặt ở đường Alexandre de Rhodes; năm 1958 thì chuyển về số 100 đường Trần Quốc Toản (gần góc đường Cao Thắng, sau năm 1975 là đường 3/2), Quận10, Sài Gòn.
Học viện này trực thuộc Phủ Thủ tướng hay Phủ Tổng thống, đến năm 1973 thì thuộc Phủ Tổng ủy Công vụ. Học viện có chương trình hai năm cao học, chia thành ba ban cao học, đốc sự, và tham sự.
Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp (1972-1974): tiền thân là Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972) rồi nhập vào Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức năm 1974.
Ngoài những học viện trên, Việt Nam Cộng hòa còn duy trì một số cơ quan nghiên cứu khoa học như Viện Pasteur Sài Gòn, Viện Pasteur Đà Lạt, Viện Pasteur Nha Trang, Viện Hải dương học Nha Trang, Viện Nguyên tử lực Đà Lạt, Viện Khảo cổ v.v… với những chuyên môn đặc biệt.
Viện Pasteur Sài Gòn thời Pháp thuộc.
Viện Pasteur Sài Gòn thời Pháp thuộc.

Các trường đại học cộng đồng:

Bắt đầu từ năm 1971 chính phủ mở một số trường đại học cộng đồng (theo mô hình community college của Hoa Kỳ) như Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang ở Mỹ Tho, Duyên Hải ở Nha Trang, Quảng Đà ở  Đà Nẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long.
Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán.
Ở Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng cho nữ sinh do Công Giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng.

Các trường kỹ thuật và huấn nghệ:

Trường Kỹ Sư Công Nghệ, Trường Hàng Hải thuộc Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật
Trường Kỹ Sư Công Nghệ, Trường Hàng Hải thuộc Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật
Ngoài những trường đại học còn có hệ thống trường cao đẳng như Trường Bách khoa Phú Thọ và Trường Nông lâm súc. Một số những trường này sang thập niên 1970 được nâng lên tươngđương với cấp đại học.
Trường quốc gia Nông Lâm mục: Thoạt tiên là Nha Khảo cứu Đông Dương thành lập năm 1930 ở B’lao, cơ sở này đến năm 1955 thì nâng lên thành Trường Quốc gia Nông lâm mục với chương trình học bốn năm. Diện tích vườn thực nghiệm rộng 200 ha chia thành những khu chăn nuôi gia súc,vườn cây công nghiệp, lúa thóc. Qua từng giai đoạn, trường đổi tên thành Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972), Học viện Quốc gia Nông nghiệp (1972-1974). Cuối cùng Trường Quốc gia Nông lâm mục được sáp nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức ( có trụ sở ở số 45 đường Cường Để, Quận 1, Sài Gòn). Trường còn có chi nhánh ở Huế, Cần Thơ, và Bình Dương.
Trường Cao đẳng Điện học
Trường Cao đẳng Điện học
Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ: Thành lập năm 1957 thời Đệ nhất Cộng Hoà gồm bốn trường: Trường Cao đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng Điện học, Trường Quốc gia Kỹ sư Công nghệ, và Trường Việt Nam Hàng hải. Năm 1968 lập thêm Trường Cao đẳng Hóa học. Năm 1972, Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật đổi thành Học viện Quốc gia Kỹ thuật và đến năm1974 thì nhập với Trường Đại học Nông nghiệp để tạo nên Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức
Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia:Thành lập năm 1966 để đào tạo nhân viên giữ an ninh và thi hành luật pháp.
Khóa 2 Cảnh Sát Quốc Gia
Khóa 2 Cảnh Sát Quốc Gia

Các trường nghệ thuật:

Trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ: Thành lập ngày 12 tháng 4 năm 1956 dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Chương trình học sau được bổ túc để bao gồm các bộ môn âm nhạc cổ điễn Tây Phương và truyền thống Việt Nam cùng kịch nghệ.
Các giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ đồng tấu Trần Thanh Tâm (đờn kìm) Phan Văn Nghị (đờn cò) Trương Văn Đệ (đờn tam) Vũ Văn Hòa (sáo) và Nguyễn Vĩnh Bảo (đờn tranh)
Các giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ đồng tấu: Trần Thanh Tâm (đờn kìm), Phan Văn Nghị (đờn cò), Trương Văn Đệ (đờn tam), Vũ Văn Hòa (sáo) và Nguyễn Vĩnh Bảo (đờn tranh).
Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế: Thành lập năm 1962 ở cố đô Huế chủ yếu dạy âm nhạc cổ truyền Việt Nam,dùng nhà hát Duyệt Thị Đường trong Kinh Thành Huế làm nơi giảng dạy.
Trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật: Thành lập năm 1971, trên cơ sở nâng cấp Trường Trung học Trang trí Mỹ thuật Gia Định (tiền thân là Trường Mỹ nghệ Gia Định, thành lập năm 1940).
Buổi học hình họa tại lớp dự bị của trường Quốc gia Mỹ thuật Sài Gòn đầu thập niên 60
Buổi học hình họa tại lớp dự bị của trường Quốc gia Mỹ thuật Sài Gòn đầu thập niên 60
Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn: Thành lập sau năm 1954; chuyên đào tạo về nghệ thuật tạo hình với các chương trình học 3 và 7 năm. Vị giám đốc đầu tiên là họa sĩ Lê Văn Đệ  (1954-1966).
Sinh viên du học ngoại quốc:
Một số sinh viên bậc đại học được cấp giấy phép đi du học ở nước ngoài. Hai quốc gia thu nhận nhiều sinh viên Việt Nam vào năm 1964 là Pháp (1.522) và Hoa Kỳ (399), đa số theo học các ngành khoa học xã hội và kỹ sư.

TÀI LIỆU VÀ DỤNG CỤ GIÁO KHOA

Trang trong sách Địa Lý lớp Ba
Trang trong sách Địa Lý lớp Ba
Truyện Kiều bản chữ Nôm của Chiêm Vân Thị do Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa xuất bản năm 1967
Năm 1958, chính phủ Đệ nhất Cộng hòa cho lập Ban Tu thư thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục để soạn, dịch, và in sách giáo khoa cho hệ thống giáo dục toàn quốc. Tính đến năm 1962, Bộ Quốc gia Giáo dục đã ấn hành xong 39 đầu sách tiểu học, 83 sách trung học, và 9 sách đại học.[82]
Trang bìa sách Địa Lý lớp Ba
Trang bìa sách Địa Lý lớp Ba
Trang bìa cuối sách Địa Lý lớp Ba
Các giáo chức và họa sĩ làm việc trong Ban Tu thư đã soạn thảo trọn bộ sách cho bậc tiểu học. Bộ sách này được đánh giá cao cả về nội dung lẫn hình thức. Có nhiều sách đã được viết, dịch, và phát hành để học sinh và sinh viên có tài liệu tham khảo.
Phần lớn sách giáo khoa và trang thiết bị dụng cụ học tập do Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục sản xuất và cung cấp với sự giúp đỡ của một số cơ quan nước ngoài. Trung tâm này còn hợp tác với UNESCO để viết và dịch sách dành cho thiếu nhi để giúp các em hiểu biết về các nền văn hóa khác nhau và tạo sự đoàn kết giữa các nhi đồng trên thế giới. Bộ Giáo dục cũng dành riêng ngân quỹ để in sách giáo khoa bậc tiểu học cho gần 30 sắc tộc thiểu số khác nhau ở Việt Nam.
KohoReader
Ngoài ra, để có sự thống nhất trong việc sử dụng các danh từ chuyên môn, Bộ Giáo dục cũng đã thiết lập Ủy ban Quốc gia Soạn thảo Danh từ Chuyên môn bao gồm nhiều giáo sư đại học. Ủy ban đã soạn thảo và, thông qua Trung tâm Học liệu, ấn hành những tập đầu tiên trong lĩnh vực văn học và khoa học.[83] Trong những dự án đó Bộ cho in lại nguyên bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm.

NHÀ GIÁO

Đào tạo giáo chức:

Trường ĐH Sư Phạm thuộc Viện ĐH Huế.  Tòa nhà này thời Pháp là KS Morin Frères
Trường ĐH Sư Phạm thuộc Viện ĐH Huế.
Tòa nhà này thời Pháp là KS Morin Frères
Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn (thành lập vào năm 1957) là cơ sở sư phạm đầu tiên, bắt đầu khai giảng năm 1958.[84] Sau có thêm các trường Cao đẳng Sư phạm ở Ban Mê Thuột, Huế, Vĩnh Long, Long An, và Quy Nhơn, Nha Trang, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên.
Ngoài ra còn có Trường Đại học Sư phạm Huế thuộc Viện Đại học Huế và Trường Đại học Sư phạm Đà Lạt thuộc Viện Đại học Đà Lạt.
Vào thời điểm năm 1974, cả nước có 16 cơ sở đào tạo giáo viên tiểu học với chương trình hai năm còn gọi là chương trình sư phạm cấp tốc. Chương trình này nhận những ai đã đậu được bằng Trung học Đệ nhất cấp. Hằng năm chương trình này đào tạo khoảng 2.000 giáo viên tiểu học.
Giáo viên trung học thì phải theo học chương trình của trường đại học sư phạm (2 hoặc 4 năm). Sinh viên các trường sư phạm được cấp học bổng nếu ký hợp đồng 10 năm làm việc cho nhà nước ở các trường công lập sau khi tốt nghiệp.
Đội ngũ giáo sư trẻ nhiệt tình vừa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn
Đội ngũ giáo sư trẻ nhiệt tình vừa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn
Nha Sư phạm (thuộc Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên) và các trường sư phạm thường xuyên tổ chức các chương trình tu nghiệp và các buổi hội thảo giáo dục để giáo chức có dịp học hỏi và phát triển nghề nghiệp. Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên cũng gởi gởi nhiều giáo chức đi tu nghiệp ở các nước như AnhPhápHoa KỳNhậtĐức, v.v…

Đối với giáo sư đại học thì đa số xuất thân từ Viện Đại học Đông Dương ở Hà Nội từ trước năm 1954. Số khác được đào tạo ở Pháp, Đức và Mỹ. Vào năm 1970 tổng cộng có 941 giáo sư giảng dạy ở các trường đại học của Việt Nam Cộng hòa.
Lễ khai giảng Trường Đại học Quốc gia Việt Nam ngày 15 tháng 11 năm 1945, khóa đầu tiên dưới chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Lễ khai giảng Trường Đại học Quốc gia Việt Nam ngày 15 tháng 11 năm 1945, khóa đầu tiên dưới chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Đời sống và tinh thần giáo chức:

Chỉ số lương của giáo viên tiểu học mới ra trường là 250, giáo học bổ túc hạng 5 là 320, giáo sư trung học đệ nhất cấp hạng 4 là 400, giáo sư trung học đệ nhị cấp hạng 5 là 430, hạng 4 là 470.
Với mức lương căn bản như vậy, cộng thêm phụ cấp sư phạm, nhà giáo ở các thành phố thời Đệ nhất Cộng hòa có cuộc sống khá thoải mái, có thể mướn được người giúp việc trong nhà.
Sang thời Đệ nhị Cộng hòa, đời sống bắt đầu đắt đỏ, vật giá leo thang, nhà giáo cảm thấy chật vật hơn, nhất là ở những thành phố lớn như Sài Gòn và Đà Nẵng. Tuy vậy, lúc nào các nhà giáo cũng giữ vững tinh thần và tư cách của nhà mô phạm (người mẫu mực, người đóng vai trò hình mẫu), từ cách ăn mặc thật đứng đắn đến cách ăn nói, giao tiếp với phụ huynh và học sinh, và với cả giới chức chính quyền địa phương.
Scan_Pic0046
Một nữ giáo sư trẻ vừa tốt nghiệp trường Đại Học Sư Phạm.

THI CỬ VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP

Chứng chỉ Tú Tài 1
Chứng chỉ Tú Tài 1
Đề thi trắc nghiệm đã được sử dụng cho môn Công dân, Sử, Địa trong các kỳ thi Tú tài I và Tú tài II từ niên khóa 1965-1966. Đến năm 1974, toàn bộ các môn thi trong kỳ thi tú tài gồm toàn những câu trắc nghiệm. Các vị thanh tra trong ban soạn đề thi đều phải đi dự lớp huấn luyện về cách thức soạn câu hỏi, thử nghiệm các câu hỏi với trên 1.800 học sinh ở nhiều nơi, phân tích câu trả lời của học sinh để tính độ khó của câu hỏi và trả lời để lựa chọn hoặc điều chỉnh câu hỏi trắc nghiệm cho thích hợp.
Chứng chỉ Tú tài 2
Chứng chỉ Tú Tài 2
Đầu những năm 1970, Nha Khảo thí của Bộ Quốc gia Giáo dục đã ký hợp đồng với công ty IBM để điện toán hóa toàn bộ hồ sơ thí vụ, từ việc ghi danh, làm phiếu báo danh, chứng chỉ trúng tuyển… đến các con số thống kê cần thiết. Bảng trả lời cho đề thi trắc nghiệm được đặt từ Hoa Kỳ, và bài làm của thí sinh được chấm bằng máy IBM 1230. Điểm chấm xong từ máy chấm được chuyển sang máy IBM 534 để đục lỗ. Những phiếu đục lỗ này được đưa vào máy IBM 360 để đọc điểm, nhân hệ số, cộng điểm, tính điểm trung bình, độ lệch chuẩn, chuyển điểm thô ra điểm tiêu chuẩn, tính thứ hạng trúng tuyển v.v… Nhóm mẫu (sample) và nhóm định chuẩn (norm group) được lựa chọn kỹ càng theo đúng phương pháp của khoa học thống kê để tính điểm trung bình và độ lệch tiêu chuẩn.

Một số nhà lãnh đạo giáo dục tiêu biểu

Trong suốt thời gian 20 năm tồn tại, các vị tổng trưởng (tức bộ trưởng) và thứ trưởng giáo dục của Việt Nam Cộng hòa đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam. Sau đây là vài nhà lãnh đạo tiêu biểu:
Phan_Huy_Quat
Ông Phan Huy Quát

ĐÁNH GIÁ

hocba1950
Học bạ của một học sinh giỏi nhất lớp năm 1950
Về học bạ trên, Giáo sư Dương Thiệu Tống, trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức đánh giá như sau:
Điểm nhận xét đầu tiên của tôi là điểm số các môn học ngày xưa sao lại thấp đến thế, ngay cả đối với học sinh đứng nhất lớp như các thí dụ trên đây.

Vậy phải chăng các thầy giáo chúng tôi ngày xưa không bị áp lực bởi thi đua đạt thành tích nên có thể cho điểm trung thực hơn? Phải chăng chúng tôi quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp.” ( Trích từ nguồn Blog Lý Toét)
Từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 6 năm 1975 ( tức là sáu tuần sau sự kiện ngày 30 tháng 4), Arthur W. Galston, giáo sư sinh học ở Viện Đại học Yale, viếng thăm miền Bắc Việt Nam (lúc đó vẫn là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Theo tường trình của Galston cho tạp chí Science số ra ngày 29 tháng 8 năm 1975 thì một trong những chủ đề khiến các nhà lãnh đạo miền Bắc bận tâm vào lúc đó là vấn đề thống nhất với miền Nam. Theo tạp chí Science thì “Việc thống nhất trong lĩnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó khăn vì hai miền đã phát triển theo hai chiều hướng khác nhau trong nhiều thập niên. Nhưng dù cho có nhiều khó khăn, Galston nhận thấy các nhà lãnh đạo miền Bắc công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhiều đặc điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam; họ dự định kết hợp những đặc điểm này vào miền Bắc khi quá trình thống nhất đang được thảo luận sôi nổi vào lúc đó thực sự diễn ra.” Theo Galston, các nhà lãnh đạo miền Bắc, cụ thể được nhắc đến trong bài là Nguyễn Văn Hiệu (Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam) vàPhạm Văn Đồng (Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), đặc biệt quan tâm đến hệ thống giáo dục nhấn mạnh đến các ngành kỹ thuật và điện tử cùng hệ thống các trường đại học cộng đồng hệ hai năm đã được thiết lập ở miền Nam (nguyên văn tiếng Anh: “the widespread educational emphasis on engineering and electronics and the system of two-year, community colleges”).[104]
Lời chứng và đánh giá của ông Mai Thái Lĩnh, cựu sinh viên Viện Đại học Đà Lạt,[105] nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Đà Lạt dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: “Tôi là con của một cán bộ Việt Minh– tham gia Cách mạng tháng Tám tại Lâm Đồng sau đó tập kết ra miền Bắc [...] Chế độ Việt Nam Cộng hòa lúc đó biết lý lịch của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi vẫn có thể học hành đến nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục cũ của miền Nam là điều tôi công khai thừa nhận, vì vậy suốt 14 năm phục vụ trong ngành giáo dục “xã hội chủ nghĩa” (1975-1989), tôi bị người ta gán cho đủ thứ nhãn hiệu, chụp cho nhiều thứ mũ chỉ vì tôi nêu rõ những ưu điểm của nền giáo dục cũ cần phải học hỏi. Chính là do thừa hưởng nền giáo dục đó của miền Nam mà tôi có được tính độc lập trong tư duy, không bao giờ chịu nô lệ về tư tưởng…[106]
Đánh giá của nhà phê bình văn học Thụy Khuê: “Có thể nói, trong suốt thời gian chia đôi đất nước, mặc dù với những tệ nạn của xã hội chiến tranh, tham nhũng; miền Nam vẫn có một hệ thống giáo dục đứng đắn. Trong chương trình giáo khoa, các giai đoạn lịch sử và văn học đều được giảng dậy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc trung học học sinh gặt hái những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới trình độ tú tài, thu thập những khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học, sinh viên văn khoa có dịp học hỏi và đào sâu thêm về những trào lưu tư tưởng Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được văn học nước ngoài qua một nền dịch thuật đáng tin cậy, dịch được những sách cơ bản. Nguyễn Văn Trung trong hồi ký đã nhấn mạnh đến sự tự trị của đại học, nhờ sự tự trị này mà các giáo sư có quyền giảng dạy tự do, không bị áp lực chính trị của chính quyền. Chính điều kiện giáo dục này, đã cho phép miền Nam xây dựng được một tầng lớp trí thức, một tầng lớp văn nghệ sĩ và một quần chúng độc giả; giúp cho nhiều nhà văn có thể sống bằng nghề nghiệp của mình. Và cũng chính tầng lớp trí thức và sinh viên này đã là đối trọng, chống lại chính quyền, khi có những biến cố chính trị lớn như việc đàn áp Phật giáo thời ông Diệm và việc đấu tranh chống tham nhũng (như vụ báo Sóng Thần) thời ông Thiệu.[107]


Trường ĐHSP Sàigòn tọa lạc tại số 280, đường Cộng Hòa, quận 5, Sàigòn, giáp với phía sau trường Đại học Khoa học (ngày nay là đường An Dương Vương, Tp Hồ Chí Minh). 

Trường được thành lập bắt đầu từ niên khóa 1958-1959, theo hệ 3 năm. Để được nhận vào học năm thứ nhất, sinh viên phải qua một kỳ thi tuyển.
Niên học đầu tiên nầy, nhà trường cũng chấp nhận cho vào học ngay năm thứ 2 những sinh viên Đại học Văn khoa, it nhất đã đỗ bằng Dự bị và những ai đang theo học trường Cao đẳng Sư phạm muốn chuyển trường.

Từ niên khóa 1962-1963 trở đi, học kỳ theo hệ 4 năm: Sinh viên phải đậu ít nhất là chứng chỉ Dự bị Văn khoa hoặc Dự bị Khoa học rồi mới được nộp đơn dự kỳ thi tuyển vào Đại học Sư phạm, Mỗi năm trường tổ chức một kỳ thi tuyển vào khoảng cuối tháng 7 (sau khi đã có kết quả kỳ thi Dự bị ở Đại học Văn khoa và Đại học Khoa học), mỗi khóa thi tuyển trường sẽ chọn lại cho mỗi ban từ 25 đến 30 sinh viên, sau khi trúng tuyển các sinh viên nầy sẽ tiếp tục học thêm 3 năm nữa và khi ra trường, tốt nghiệp với văn bằng "Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp". 
Từ năm 1972, Trường ĐHSP Saigon bắt đầu tổ chức thêm kỳ thi tuyển vào các ban Toán, Lý Hóa và Anh Văn cho các ứng viên vừa đậu tú tài toàn phần. Học kỳ sau khi trúng tuyển là 2 năm cho đệ nhất cấp và 4 năm cho đệ nhị cấp. Năm đầu tiên được gọi là năm "dự bị". 
Sau ngày 30/04/1975 hệ thống học Dự bị Văn khoa hay Khoa học trước rồi mới được dự kỳ thi tuyển vào ĐHSP không còn nữa mà tất cả các thí sinh đều thi tuyển thẳng vào ĐHSP sau khi đã đậu bằng tú tài toàn phần. 

Sinh viên ĐHSP được cấp học bổng nhưng phải ký giấy cam kết , sau khi tốt nghiệp sẽ phục vụ cho trường Trung học nhà nước ít nhất là 10 năm. Số tiền học bổng cũng được tăng lên dần theo với đà lạm phát, lúc đầu mỗi sinh viên được lãnh mỗi tháng 700 đồng VN, từ khoảng năm 1960/1961 số tiền học bổng là 1500 đồng VN và đến năm 1970 thì mỗi sinh viên được lãnh khoảng 3000 đồng VN mỗi tháng.
(Người viết: Phạm Thị Nhung)



(Từ niên khóa 1966-1967,ở ĐHKH SG có thay đổi trong mô hình đào tạo,chuyển từ hệ thống các chứng chỉ (lớn) sang các c/c nhỏ. Mỗi c/c nhỏ là một môn học. Thí dụ c/c Vật lý đại cương chia thành các c/c: Quang học, Điện học, Cơ học, Nhiệt học,Nhiệt động lực học. Như vậy,ta thấy, mỗi c/c nhỏ cũng còn nặng. Sau đó vài năm, ĐHKH SG đổi sang đào tạo theo tín chỉ ,do ảnh hưởng của chế độ giáo dục đại học Mỹ. Mỗi c/c nhỏ được chia thành nhiều tín chỉ).
(Bổ túc của Nguyễn Trần Trác)


Từ 1958-1962 theo hệ 3 năm gọi là Cao Đẳng Sư phạm. Khóa 3 năm cuối cùng: 1962-1965. Tiếp theo là 2 khóa 4 năm: 1963-1967 và 1964-1968. Như thế năm 1966 không có sinh viên ra trường.
Từ 1966 trở đi bắt đầu khóa 3 năm + 1 năm chứng chỉ dự bị Văn khoa hoặc Khoa học. Như thế năm 1965 không có tuyển sinh.
(Bổ túc của Vũ Lưu Xuân)

 
Khuất sau tàng cây là dẫy lầu thuộc ban Văn chương. Dẫy lầu trắng bên phải được xây cất sau này, trên nền của Thư viện ĐHSP ngày trước.

Sân trường ĐHSP phía ban Văn chương.
 
Sân trường ĐHSP phía ban Văn chương

Dẫy lầu ban Văn chương ĐHSPSG.
 
Dẫy lầu ban Khoa học ĐHSPSG.

Dẫy lầu ở giữa (được xây cất sau này) là nơi đặt văn phòng của Ban Quản trị, chổ này, trước đây, là Thư viện của ĐHSPSG.
 
Cuối dãy lầu ban Khoa học, phía bên phải, ngày xưa là nơi giữ xe gắn máy cho SV.

Dãy lầu ban Văn chương
 
Cổng chính vào trường ĐHSP số 280-An Dương Vương-Q.5 Tp Hồ Chí Minh.

Từ cổng chính đi thẳng vào

Giáo sư Bùi Xuân Bào 
Giáo sư Bùi Xuân Bào sinh ngày 2/2/1916, nhưng trong khai sinh ghi ngày 1/1/1916 để cho dễ nhớ. Ông xuất thân trong một gia đình Nho học. Thân phụ là cụ Bùi Xuân Trữ, xuất thân Trường Quốc Tử Giám, Tú Tài Hán Học. Thân mẫu là bà Tôn Nữ Ngọc Hòe, thuộc hoàng tộc, ái nữ cụ Thượng Thư Tôn Thất Tế.
Thuở nhỏ, ông học ở Huế, Hà Nội. Trong thời gian học Ban Tú Tài tại Trường Quốc học Huế, ông trúng tuyển một kì thi concours chọn học sinh xuất sắc toàn cõi Đông Dương.
Năm 1939, ông du học ở Pháp, đậu cử nhân văn chương tại Đại học Sorbonne, Paris. Về nước, ông làm giáo sư tại trường Quốc học một thời gian, sau đó ông qua Paris học và thi đậu Tiến sĩ Quốc gia (doctorat d’État) Pháp năm 1961 tại Đại học Sorbonne, Paris với đề tài “Văn chương Pháp giữa hai thế chiến” đã được xuất bản tại Pháp trong những năm 60.
Năm 1962, ông về nước được cử làm Khoa Trưởng Đại học Sư phạm Sài Gòn, rồi Khoa Trưởng Đại học Văn khoa và giáo sư thỉnh giảng Pháp văn tại Đại học Văn khoa Huế và Đà Lạt cho đến năm 1975.
Trong khoảng thời gian năm 1975-1982, ông phụ trách dạy các lớp bồi dưỡng tiếng Pháp cho các giáo viên, chuyên viên sử dụng tiếng Pháp tại trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh là Đại học Văn khoa Sài Gòn cũ cho đến ngày được phép sang Pháp mổ tim năm 1983.
Ông mất ngày 7-4-1991 tại Paris, hưởng thọ 75 tuổi.



Giáo sư Lý Công Cẩn


thầy Lý Công Cẩn
Trước 30/4/1975, Giáo sư Lý Công Cẩn là Phó Khoa trưởng kiêm Trưởng ban Vật lý tại ĐHSP Sàigòn.
Năm 1973, Ông được cử làm Quyền Khoa trưởng ĐHSP Sàigòn, thay mặt Giáo sư Trần Văn Tấn để điều hành ĐHSPSG vì lúc đó Ông Trần Văn Tấn vừa là Viện trưởng Viện Đại học Sàigòn vừa là Khoa trưởng Đại học Sư phạm Sàigòn nên quá bận rộn.
Sau khi qua định cư ở Pháp, Giáo sư Lý Công Cẩn tiếp tục giảng dạy ở Đại học Montpellier. Hiện nay ông đã về hưu và cư ngụ ở Le Crès thuộc miền Nam nước Pháp.



Giáo sư Bùi Phượng Chì

thầy Bùi Phượng ChìCụ Bùi Phượng Chì là vị Giám Đốc đầu tiên của ban Khoa học thuộc Đại học Sư phạm Sàigòn. Cụ là 1 trong 3 người có công lập ra trường Đại học Sư phạm. Hai Vị kia là cụ Trương Công Cừu (Khoa Trưởng) và cụ Phan Thế Roanh (Giám Đốc ban Văn chương).
Cụ Bùi Phượng Chì sinh năm 1909 tại Bắc Ninh. Tốt nghiệp Cử nhân Lý Hóa tại Đại học Montpellier (Pháp) năm 1935.
Cụ trở về Việt Nam cuối năm 1935 và dạy học tại Trường Bưởi.
Từ năm 1940 đến năm 1945, Cụ dạy tại trường Đại học Khoa học Hà Nội (Phòng Thí nghiệm).
Sau năm 1945, vì không muốn làm việc dưới quyền người Pháp, cụ đi dạy tại trường Tư thục Dũng Lạc. Đến năm 1951 Cụ dạy tại trường Nguyễn Trãi thời chính phủ Quốc Gia.
Năm 1954, Cụ di cư vào Sàigòn và dạy học tại trường Chu Văn An.
Năm 1955 Cụ làm Thanh tra Học chánh.
Từ 1956 đến 1958, Cụ làm Tổng Giám đốc Học vụ Trung học.
Sau đó Cụ làm Giám đốc ban Khoa học tại trường Đại học Sư phạm Sàigòn từ 1958 đến 1967.
Cụ Bùi Phượng Chì về hưu trí năm 1967 và năm 2000 Cụ qua đời tại Hoa kỳ.



Giáo Sư Giản Chi - Nguyễn Hữu Văn

1- Tiểu sử:
thầy Giản ChiThầy Giản Chi sinh năm Giáp Thìn (1904), quê làng Yên Quyết (làng Cót), phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc quận Cầu Giấy, Hà Nội). Thuở nhỏ theo đòi Nho học; đến năm 14 tuổi đỗ khóa sinh, sau đó được vào học trường Bưởi.
Thầy tốt nghiệp trường Cao đẳng Công chính Hà Nội, sau khi tốt nghiệp được tuyển làm công chức ngành bưu điện tại Lai Châu, Sơn La, tỉnh Hải Dương. Thầy bắt đầu cộng tác với một số tờ báo tại Hà Nội.
Khi Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, thầy đưa gia đình lên miền thượng du tản cư, tạm lánh tại vùng Hoàng Lưu, sông Vàng, Thanh Oai.
Năm bốn mươi tuổi, thầy có hai câu thơ nói về quãng đời phiêu bạt của mình:
"Dòng đời khôn đổi làm sông rượu
Bừng giấc quan hà lại muốn say"
Từ 1940 thầy đã làm thơ đăng báo, nhưng mãi đến năm 1994 mới cho in thành tập "Tấc lòng". Thầy từng nói: "Duyên làm thơ của tôi bắt nguồn từ cảnh đẹp trên đường Cổ Ngư hồi còn đi học. Nó đeo đuổi tôi mãi đến lúc đầu đã bạc vẫn vương vấn mấy câu: Gió đông mơ dáng hoa đào/Trà Phương Bối đậm nhớ Sao Trên Rừng".Năm 1954, theo dòng người đi tìm tự do, thầy di cư vào Nam và cư trú tại Sàigòn. Tiếp tục làm công chức, dạy học tại Trường Đại học Sư Phạm Sàigòn, Đại học Văn khoa Sàigòn, Đại học Văn khoa Huế. Đại học Tổng hợp TPHCM (mấy năm đầu sau 30.4.1975).
Thầy viết nhiều sách về triết học và văn học cổ Trung Hoa. Thầy kết thân với người bạn tâm giao, cụ Nguyễn Hiến Lê, và cũng là người anh em bạn rễ của thầy. Cả hai vị cộng tác chặt chẽ, cùng viết và dịch nhiều quyển sách có giá trị như "Chiến quốc sách", "Sử ký Tư Mã Thiên", "Đại cương triết học Trung Quốc"...
Thầy là một lương sư tận tụy, một học giả uyên bác đã cống hiến rất nhiều cho nền học thuật nước nhà.
Cụ Nguyễn Hiến Lê có vài lời nhận xét về thầy Giản Chi như sau: "Ông Giản Chi là một nghệ sĩ (...) tính tình hào hoa phong nhã, thích hoa, rượu, nhạc. Thơ ông có giọng lãng mạn của thời đó, nhưng không sướt mướt mà hào hùng".
Sau 30 tháng 4 năm 1975, thầy vẫn ở lại Sàigòn, mặc dù ba người con của thầy khẩn khoản xin rước thầy ra nước ngoài định cư, nhưng thầy đã từ chối. Thầy vẫn tiếp tục ở lại trong nước, viết sách, làm thơ nhưng không còn nhiệt tình như thời gian trước nữa.
Đến 14 giờ 55 phút chiều 22 tháng 10 năm 2005, thầy tạ thế tại nhà riêng ở quận 4, thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 102 tuổi. Ngày 26/10/2005, rất nhiều học trò cũ của thầy đến kính viếng thầy tại nhà tang lễ số 25 Lê Quý Đôn và chia buồn với các con của thầy vừa từ nước ngoài về quê báo hiếu.

2- Tác phẩm:
- Cô độc - dịch truyện Lỗ Tấn (1954)
- Cái đêm hôm ấy (dịch Somerset Maugham) 
- Lỗ Tấn tuyển tập (1987).
- Tấc lòng (thơ 1993). 
- Vương Duy thi tuyển (1992).
* Các tác phẩm soạn chung với Nguyễn Hiến Lê:
- Đại cương triết học Trung Quốc, thượng và hạ (1965).
- Chiến quốc sách (1967). 
- Sử ký Tư Mã Thiên (1972).

- Tuân Tử (1974).
- Hàn Phi Tử (1975).
(Viết bởi Lâm Hữu Tài và các cựu SV ban Việt Hán, khóa 1966-1969)



Giáo sư Nguyễn Thị Cúc


Cô Nguyễn Thị Cúc

Tốt nghiệp tiến sĩ Địa Lý tại Đại học Sorbonne- Paris.
Bà là Giảng sư tại trường Đại học Sư Phạm Sàigòn, trường Đại học Văn Khoa Sàigòn và Viện Đại học Đà lạt.
Trong những ngày cuối tháng 4 năm 1975 bà đã cùng các con di tản sang Pháp.
Bà là Chuyên gia khảo cứu (recherche) của Trung tâm Quốc gia Khảo cứu Khoa học Pháp (CNRS) (1975-1993).
Hiện hưu trú tại Pháp cùng với phu quân là giáo sư Lâm Thanh Liêm.



Giáo sư Lê Thanh Hoàng Dân


thầy Lê Thanh Hoàng Dân
Giáo sư Lê Thanh Hoàng Dân sinh tại Sàigòn. Định cư tại Hoa Kỳ (New York) từ năm 1975. Ông tốt nghiệp MS & MBA tại Pace University - New York và đã làm việc cho nhiều nhà bank và công ty ở Hoa Kỳ. Về hưu trí từ năm 2002.
Trước 1975, ông là giáo sư tại các trường: Võ Trường Toản (Sàigòn), Quốc gia Sư phạm Sàigòn, Đại học Sư phạm Sàigòn, Đại học Sư phạm Cần Thơ, Cao Đài, Hòa Hảo.
Ông đã dịch thuật và viết nhiều sách trước 1975 như: Các Vấn đề Giáo dục, Triết lý Giáo dục, Những Danh tác Chính trị, Lịch sử Chiến tranh lạnh...

Để hiểu rõ hơn về đời sống và các hoạt động của Giáo sư Lê Thanh Hoàng Dân, xin mời vào website sau đây: http://my.opera.com/Le Thanh Hoang Dan




Giáo Sư Phạm Cao Dương


thầy Phạm cao Dương
Ông đã tốt nghiệp các trường Đại học Sư phạm, Đại học Văn khoa Sàigòn vào đầu thập niên 60. Năm 1973 Ông sang Pháp du học và tốt nghiệp Tiến Sĩ ngành Sử tại đại học Paris. Ông từng giảng dạy tại các trường Đại học Sư Phạm Sàigòn, Đại học Văn Khoa Sàigòn và là giáo sư thỉnh giảng tại các đại học Đà Lạt, Huế, Cần Thơ, Vạn Hạnh và Cao Đài.

Tháng Tư năm 1975, giáo sư Phạm Cao Dương may mắn rời khỏi được đất nước trong những giờ phút cuối cùng của miền Nam. Đặt chân tới nước Mỹ ông có một thời gian ngắn gián đoạn nghề dậy học, nhưng bù vào đó ông đã cắp sách đến trường lại để hoàn tất những học vị cần thiết cho việc quay lại với nghề dạy học cũ của mình. 
Sau đó,ông giảng dạy các môn lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ Việt nam trong gần ba chục năm qua tại các trường UCI, UCLA, Cal State Long Beach, Santa Ana College…

Hiện nay tuy đã đến tuổi nghỉ hưu, nhưng giáo sư Phạm Cao Dương vẫn còn dạy một số lớp tại các trường đại học có đông sinh viên Việt Nam ở Nam Cali. 
Ông là một nhà giáo tận tụy với nghề suốt hơn bốn chục năm trường. Đúng là ông sinh ra để đi học và đi dạy h
ọc.



Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch


thầy Nguyễn Khắc Hoạch
Thầy Nguyễn Khắc Hoạch, sinh ngày 15-5-1921 tại huyện Đông Yên, tỉnh Hưng Yên, Việt Bắc. Trong quá trình hoạt động văn hóa nghệ thuật, thầy dùng nhiều bút hiệu như: Hữu Minh, Lân Hồ, Hoàng Tuấn, Trần Hồng Châu…

Thuở bút nghiên:
Lúc thiếu thời, thầy học tại trường Trung Học Khải Định Huế (1936-1943), rồi học tại trường Đại học Luật Khoa Hànội cho đến năm 1945.
Sau năm 1945, thầy sang Pháp theo học trường Đại học Sorbonne Paris, đỗ Cử nhân Văn Chương năm 1950, đỗ Tiến sĩ Văn Chương Quốc Gia (Doctorat d’Etat) năm 1955.Đồng thời, thầy cũng tốt nghiệp Viện Cao Đẳng Quốc Tế thuộc Khoa Luật (Institut des Hautes Etudes Internationales de Droit) Paris, năm 1952; và tốt nghiệp Trung tâm Châu Âu thuộc Đại học Nancy (Centre d’Etudes Européennes Université de Nancy), 1957.
Thời hoạt động: 
- Lãnh vực Giáo dục: 
• Năm 1957 về nước, thầy làm giáo sư môn Văn chương Pháp và Văn chương Việt nam tại các trường Đại học Văn Khoa và Đại học Sư Phạm Sàigòn; Đại học Huế; Đại học Đàlạt và Học viện Quốc gia Hành Chánh. 
• Được bầu làm Khoa Trưởng Đại học Văn khoa Sàigòn theo nguyên tắc Đại học tự trị lần đầu tiên trong lịch sử Đại Học Văn Khoa (1965-1969). 
• Năm 1970, được mời sang Hoa kỳ làm Giáo sư thỉnh giảng về môn Văn chương, Văn hóa Việt Nam, và Văn chương Pháp tại Southern Illinois University (Carbondale, Illinois, USA). Thầy dạy học tại đây đến năm 1974 thì về nước.
• Khoảng năm 1990, thầy sang Hoa Kỳ định cư theo diện gia đình bảo lãnh, cư trú tại Quận Cam, California. 
- Lãnh vực Văn hóa Nghệ thuật:Là nhà trí thức uyên bác được kết tinh từ nền tân học hiện đại lại uyên thâm cả nền cựu học, thầy đã đem cái sở học của mình tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người, và hết lòng chấn hưng nền học thuật nước nhà: 
• Trước năm 1945, thầy đã viết cho các tạp chí Gió Mới và Tiền Phong (Hà nội).
• Sau thời gian du học và vinh qui năm 1957, thầy mang theo những tinh hoa của nền văn học Tây Phương về nước, truyền đạt đến những thế hệ trẻ Việt Nam đàn em và những thế hệ tiếp nối. Là nhà Tây học, nhưng thầy là người rất tôn trọng lễ nghĩa, và giữ lòng trung tín với tổ quốc cha ông, tích cực hoạt động trong lãnh vực văn hóa giáo dục.
• Ở quốc nội, thầy sáng lập tạp chí Thế Kỷ XX; cộng tác với Tạp chí Văn Hóa Nguyệt San của Bộ Giáo dục do GS Nguyễn Đình Hòa làm chủ bút; tạp chí Văn Hóa Á Châu của GS Nguyễn Đăng Thục.
• Khi định cư ở nước ngoài, thầy vẫn tiếp tục làm thơ, viết văn dưới bút hiệu là Trần Hồng Châu. Cộng tác với Văn, Văn Học và Thế kỷ XXI. 
CÕI VỀ: Ngày 7-12-2003, thầy tạ thế, ra đi về cõi vĩnh hằng tại nơi thầy định cư (California USA), để lại lòng tiếc thương vô hạn cho tất cả thân quyến bằng hữu, các bậc thức giả và học trò, cả trong và ngoài nước.
Vinh Danh: 
• Để tuyên dương những thành tích của thầy, năm 1968, Chính phủ VNCH đã ân thưởng cho thầy huy chương Văn hóa Giáo dục Bội tinh. • Phương danh GS Nguyễn Khắc Hoạch được rạng rỡ ghi trong các quyển Who’s Who in the World, Men of Achievement, International Book of Honor, và Intetnational Who’s Who in Asian Studies.
Tác phẩm: 
• Le Japon et le Traité de Paix, Paris, 1952
• Le Roman Vietnamien au 18e et 19e Sìecle, Paris, 1955
• Les Ralations Américano-japonaises depuis 1951, Paris, 1957
• Xây Dựng và Phát Triển Văn hóa Giáo dục (Lửa Thiêng, Sàigòn, 1970)
• Thành Phố Trong Hồi Tưởng (Tùy bút, An Tiêm, Los Angeles, USA, 1991)
• Nửa Khuya Giấy Trắng (Thơ, Thanh Văn, Los Angeles, 1992)
• Nhớ Đất Thương Trời (Thơ, Thế Kỷ, Los Angeles, 1995)
• Hạnh Phúc Đến Từng Phút Giây (Thơ, Văn Học, Los Angeles, 1999)
• Dăm Ba Điều Nghĩ Về Văn Học Nghệ Thuật (Tiểu luận, Văn Nghệ, 2001) 
• Suối Tím (Thơ, Văn Nghệ, 2003)
• Tuyển Tập Trần Hồng Châu (Thơ, Tùy bút, Tiểu luận, Viện Việt Học, 2004)
(Viết bởi Lâm Hữu Tài, ban Việt Hán, khóa 1966-1969)



Giáo sư Khưu Sĩ Huệ

cokshue

Giáo sư Khưu Sĩ Huệ sinh ngày 6 tháng 7 năm 1934 tại Trà vinh, tỉnh Vỉnh bình. Cô đi du học ở Đài loan năm 1952, tốt nghiệp cử nhân ở Đại học sư phạm quốc gia Đài loan( National Taiwan Normal University) và dạy học ở Đài loan cho đến khi về nước. Năm 1963 cô tốt nghiệp cao học ở  đại học Chenchi (national Chenchi University) ở phía Nam thành phố Đài bắc. Cô về nước năm 1963, làm ở bộ giáo dục, sau đó dạy ở Đại Học Sư Phạm Sài gòn cho đến ngày 30-4-1975. Ngoài ra cô còn dạy ở đại học Văn khoa Sài gòn, Đại học Cần Thơ, đại học Vạn Hạnh ở Sài gòn và đại học cao đài ở Tây ninh. Cô mất ngày 18 tháng 10 năm 2012 tại tiểu bang Virginia, Hoa kỳ.

cô Khưu Sĩ Huệ





Giáo sư Lưu Khôn

thầy Lưu Khôn
Quê ở Xã Mỹ trà, Quận Cao lãnh, Tỉnh Đồng Tháp. 
Nguyên Giáo sư Hán Văn tại ĐH Sư Phạm, ĐH Văn Khoa Sàigòn và ĐH Cần Thơ (trước 1975). Sau tháng 4/75 thầy vẫn tiếp tục dạy học tại ĐH Sư Phạm và ĐH Văn khoa Sàigòn. 
Giữa thập niên 1980, thầy được con trai bảo lãnh sang định cư tại Hoa kỳ cho tới nay.

về thăm quê hương
Từ trái sang phải: Bà Lưu Thị Hoàng Hoa (em gái GS Lưu Khôn), GS Lưu Khôn, Phu nhân anh L.H.Tài, Bà Lưu Khôn, anh Lâm Hữu Tài, các cháu Bà Lưu Khôn, trong một lần về thăm quê hương.




Linh mục Thanh Lãng

Linh mục Thanh Lãng

Cố GS. LM Thanh Lãng tên thật là Đinh Xuân Nguyên, sinh tại làng Tam Tổng, Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Thuở bút nghiên:
- Thiếu thời, GS học tại trường làng. Năm 12 tuổi học tại Tiểu chủng viện Ba Làng. Năm 1945, thi đậu Tú tài toàn phần. Năm 1947, học triết tại Đại chủng viện Xuân Bích (Hà Nội). Năm 1949, được cử sang học tại Trường truyền giáo Rôma. Năm 1953 được thụ phong Linh mục. Sau khi được thụ phong, GS tiếp tục theo học Ban Văn chương và đậu Tiến sĩ tại Đại học Fribourg, Thụy Sĩ.
Thời hoạt động trong lãnh vực văn hóa giáo dục: 
- Năm 1957 GS về nước và được bổ nhiệm làm Giáo sư tại Tiểu chủng viện Tân Thanh (Bảo Lộc, Lâm Đồng). Trong thời gian này GS cũng được mời giảng dạy tại Đại học Văn khoa Huế, Đại học Văn khoa và Đại học Sư Phạm Sàigòn suốt từ năm 1957 đến 1975. 
- Sau ngày 30 tháng 04 năm 1975, GS chuyển sang nghiên cứu lãnh vực ngôn ngữ tại Viện Khoa học xã hội TP. HCM.
- Suốt quá trình làm công tác trong ngành giáo dục, từ năm 1957 đến năm 1975, GS cống hiến rất nhiều cho nền học thuật nước nhà; chuyên tâm nghiên cứu trong lãnh vực văn chương để phục vụ việc giảng dạy trong điều kiện đất nước còn thiếu sót rất nhiều tài liệu học tập bậc đại học. 
- Chủ biên các tạp chí: Việt tiến, Trách nhiệm, Nghiên cứu văn học, Tin sách... và viết nhiều bài đăng trên nhiều báo khác với các chủ đề xoay quanh nền văn học Việt Nam. Hầu hết các bài viết của GS đều chú trọng các đề tài như Lịch sử phát triển chữ Quốc ngữ, Văn chương Quốc âm, Giáo trình Văn chương Việt Nam… Ngoài ra, GS cũng viết nhiều bài phê bình văn học, một số bài viết về các tác giả: Nguyễn Du, Nhất Linh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh...
- GS lâm trọng bệnh và qua đời tại S
àigòn ngày 17/12/1978
Các sách đã xuất bản:
• Khởi thảo văn học sử Việt Nam: Văn chương bình dân (Hà Nội, 1953; Sài Gòn, 1954, 1957)
• Biểu nhất lãm văn học cận đại Việt Nam (Sài Gòn, 1957)
• Đóng góp của Pháp trong văn học Việt Nam (Luận án Tiến sĩ, 1961)
• Thử suy nghĩ về về văn hóa dân tộc (Sài Gòn, 1967)
• Bảng lược đồ văn học Việt Nam (2 tập, Sài Gòn, 1967)[1]
• Văn học Việt Nam: Đối kháng Trung Hoa (Sài Gòn, 1969)
• Văn học Việt Nam: Thế hệ dấn thân yêu đời (Sài Gòn, 1969)
• Phê bình văn học thế hệ 1932 (2 quyển, Sài Gòn, 1972)
• Tự điển Việt-La-Bồ (dịch chung với Hoàng Xuân Việt và Linh mục Đỗ Quang Chính, 1991)
• 13 năm tranh luận văn học (3 tập, 1995)
Và nhiều tác phẩm chưa in khác.
(Viết bởi Lâm Hữu Tài, ban Việt Hán, khóa 1966-1969)


Giáo sư  Lâm Thanh Liêm


thầy Lâm Thanh Liêm
Tốt nghiệp tiến sĩ tại Đại học Sorbonne- Paris, ông đã từng là giáo sư trường Đại học Sư Phạm Sàigòn, giáo sư kiêm trưởng ban Địa lý trường Đại học Văn Khoa Sàigòn, nguyên Tổng thư ký Viện Đại học Saigon.

Ông cũng là giáo sư về ngành khoa học xã hội tại Viện Đại học Vạn Hạnh, ngành chính trị kinh doanh tại Viện Đại học Đà Lạt, ngành thương mại tại Đại học Minh Đức,đồng thời ông cũng giảng dạy tại các Đại học khác như Viện Đại học Huế và Viện Đại học Cần Thơ. 

Sau tháng 4 năm 1975,dưới chế độ cộng sản, ông bị cưỡng bách "học tập cải tạo"trong thời gian 3 năm (1975-1977). Sau đó ông làm việc trong ngành nông nghiệp cho tới năm 1979 thì sang Pháp đoàn tụ với gia đình.
Hiện hưu trú tại Pháp sau một thời gian làm Chuyên gia khảo cứu của Trung tâm Quốc gia Khảo cứu Khoa học Pháp (CNRS) và giảng sư của Đại học Sorbonne Paris IV.



Giáo sư Trần Trung Lương


thầy Trần Trung Lương
Nhà văn Trà Lũ tên thật là Trần Trung Lương, sinh tại Ninh Bình, Bắc Việt. Vào Nam năm 1954. Giáo sư Đại học Sư phạm Sài Gòn trước 1975. Hiện định cư tại thành phố Toronto (Canada) và làm việc cho Bộ Văn Hoá & Công Dân của tỉnh bang Ontario.
Ông sáng tác sau 1975, cộng tác với nhiều tạp chí tại hải ngoại.. Từng giữ chức chủ tịch Văn Bút Việt Nam trung tâm Ontario (1991-1995).
Những tác phẩm của ông, hầu hết đều lấy cái nền Đất để trưng bày những vấn đề trong cuộc sống, cùng tình cảm ông dành cho mỗi góc cạnh cuộc đời. Sau những: Miền Đất Hạnh Phúc (1989), Đất Mới (1991), Miền Đất Hứa (1993), Đất Thiên Đàng (1995), Đất Yêu Thương (1997), Đất Lạnh Tình Nồng (1999), Đất Quê Ngoại (2001), Đất Anh Em (2003).. đến nay là Đất Nhà. Sức viết của ông khá mạnh và cứ chu kỳ hai năm, ông lại "lên khuôn" một lần để gởi đến bạn đọc.

(Trích bài của Võ Kỳ Điền, ban Việt Hán, khóa 1961-1964)



Giáo sư Lê Hữu Mục


thầy Lê Hữu Mục


Giáo sư LÊ HỮU MUC sinh ngày 24/11/1925 tại làng Lưu Phương, Phát Diệm, tỉnh Ninh Bình, Bắc Việt. Hiện định cư tại Canada.Nguyên Giáo sư Đại học Sư Phạm Sàigòn, Đại học Sư Phạm & Đại học Văn khoa Huế. Nguyên Giám Đốc Nha Sư Phạm Bộ Giáo Dục VNCH.


Những tác phẩm đã xuất bản:
- Chèo Đi Bơi Đi (nhạc và lời, 1941)
- Thân Thế và Sự Nghiệp Nhất Linh (1955)
- Nhận Định về Đoạn Tuyệt (1955) 
- Luận Đề về Khái Hưng (1956) 
- Luận Đề về Hoàng Đạo (1956) 
- Chủ Nghĩa Duy Linh (1957)
- Văn Hóa và Nhân Vị (1958, viết chung với Bùi Xuân Bào, Võ Long Tê) 
- Thảm Trạng của Một Nền Dân Chủ Vô Thần (1958) 
- Lĩnh Nam Chích Quái (1959)
- Việt Điện U Linh Tập (1960)
- Quân Trung Từ Mệnh Tập (1960)
- Ức Trai Thi Tập (1961) 
- Nhị Khê Thi Tập (1962) 
- Băng Hồ Ngọc Báo Tập (1963) 
- Chúa Thao Cổ Truyện ( 1965) 
- Lịch Sử Văn Học Việt Nam (tập 1, 1968) 
- Khóa Hư Lục (1973) 
- Truyện Kiều và Tuổi Trẻ ( viết chung với bà Phạm Thị Nhung và Ds Đặng Quốc Cơ, nxb Làng Văn, 1998) 
- Tiếng nói Đoàn Thị Điểm trong Chinh phụ ngâm khúc (viết chung với bà Phạm Thị Nhung - 2001).
(Viết bởi Lâm Hữu Tài và các cựu SV ban Việt Hán, khóa 1966-1969)


Giáo sư Đàm Trung Pháp

damtrungphapGiáo sư Đàm Trung Pháp là một nhà giáo dục ngôn ngữ, chuyên về ngữ học áp dụng, ngữ học so sánh, và phương pháp giảng dạy tiếng Anh như sinh ngữ thứ hai. Được hấp thụ hai nền giáo dục đại học Hoa Kỳ và Việt Nam, ông hoàn tất các văn bằng cử nhân Anh văn tại Đại Học Miami, cao học ngữ học tại Đại Học Georgetown, và tiến sĩ giáo dục tại Đại Học Saigon. 

Tại quê nhà, ông dạy ngữ học tại Đại Học Sư Phạm Saigon từ 1968 đến 1975. Từ 1969 đến 1971 ông kiêm nhiệm các chức vụ giám đốc Trường Sinh Ngữ và giám đốc Trung Tâm Thính Thị Anh Ngữ của Bộ Giáo Dục, rồi được bổ nhiệm làm giám đốc Trung Tâm Sinh Ngữ năm 1971 khi hai cơ sở trên được sáp nhập với danh xưng mới và đặt trực thuộc Đại Học Sư Phạm Saigon.

Tỵ nạn tại Mỹ, ông từng dạy ngữ học tại Đại Học Our Lady of the Lake tại San Antonio, Đại Học Texas A & M tại Commerce, Đại Học Texas tại Dallas, cũng như điều khiển chương trình ngôn ngữ thế giới cho Khu Học Chánh Dallas. Từ 2004 đến nay, ông là giáo sư thực thụ (tenured full professor) kiêm giám đốc chương trình đào tạo giáo chức song ngữ (Spanish/English bilingual education) và giáo chức ESL (English as a Second Language) ở bậc cử nhân và cao học cho Texas Woman’s University tại Denton. Từ 2005 đến nay ông cũng là chủ biên (series editor) của một chuyên san về giáo dục ngôn ngữ dưới sự bảo trợ của Liên Viện Đại Học Bắc Texas (Federation of North Texas Area Universities).

Giáo sư Đàm Trung Pháp cũng là một diễn giả quen thuộc tại các hội nghị toàn quốc tổ chức bởi các chuyên hội giáo dục ngôn ngữ như National Association for Bilingual Education (NABE) và Teachers of English to Speakers of Other Languages (TESOL). 
Giáo sư Đàm Trung Pháp là tác giả (author), tác giả đóng góp (contributing author), hoặc chủ biên (editor) của các sách, chuyên san, và tài liệu giáo khoa liệt kê sau đây:
  • [Tác giả 1972] The Fundamentals of American English Phonology. Trung Tâm Sinh Ngữ, Đại Học Sư Phạm Saigon.
  • [Tác giả 1974] The Fundamentals of American English Syntax. Trung Tâm Sinh Ngữ, Đại Học Sư Phạm Saigon.
  • [Tác giả 1980] A Contrastive Approach for Teaching ESL to Indochinese Students. Intercultural Development Research Association, San Antonio.
  • [Tác giả 1981] The IDRA Structured Language Interview. Intercultural Development Research Association, San Antonio.
  • [Tác giả 1981] The IDRA Oral Language Dominance Test. Intercultural Development Research Association, San Antonio.
  • [Tác giả 1981] A Manual for Teachers of Indochinese Students. Intercultural Development Research Association, San Antonio.
  • [Tác giả đóng góp 1991] Teaching Linguistically Different Learners. Alpha Editions, Edina, Minnesota.
  • [Tác giả 1992] Immersion Spanish Programs in Elementary Schools. Dallas Independent School District, Dallas.
  • [Tác giả 1994] Instructional Guide for World Languages. Dallas Independent School District, Dallas.
  • [Tác giả đóng góp 2004] Resource Guide of Language Transfer Issues for English Language Learners.Rigby Textbook Company, Barrington, Illinois.
  • [Chủ biên 2006] Cultural and Linguistic Issues for English Language Learners. Federation of North Texas Area Universities, Denton, Texas.
  • [Chủ biên 2007] Intercultural Understanding. Federation of North Texas Area Universities, Denton, Texas.
  • [Chủ biên 2008] Current Issues and Best Practice in Bilingual and ESL Education. Federation of North Texas Area Universities, Denton, Texas.
  • [Chủ biên 2009] Understanding the English Language Learner. Federation of North Texas Area Universities, Denton, Texas.
  • [Tác giả đóng góp 2010] Music in Elementary Education. Prentice-Hall, Upper Saddle River, New Jersey.
  • [Chủ biên 2010] Teaching English Language Learners: An International Perspective. Federation of North Texas Area Universities, Denton, Texas.
  • [Chủ biên 2011, đang soạn thảo] Linguistic and Cultural Considerations for English Language Learners.Federation of North Texas Area Universities, Denton, Texas.
___________________________________________________________________________________________________________

Giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn

Quê quán: Tỉnh Hưng Yên
Cơ quan công tác: Trung tâm Dịch vụ phân tích Thí nghiệm. Số 2 Nguyễn Văn Thủ, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minhcacthaytoi
Quá trình công tác
1957-1975: Giảng dạy tại Đại học Khoa dược Sài Gòn, Đại học Khoa học Saigon, và Đại học Sư Phạm Saigon.
1975-1987: Cán bộ giảng dạy Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
1986-2002: Giám đốc Trung tâm Dịch vụ Phân tích Thí nghiệm, kiêm Chủ tịch liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh
2002-2003: Phó chủ tịch Liên hiệp các hội khoa học và Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh.
Hướng nghiên cứu khoa học chủ yếu
Nghiên cứu cơ chế phản ứng hữu cơ. Tổng hợp hữu cơ tinh vi. Phương pháp phân tích vết.
Một số kết quả đào tạo và nghiên cứu khoa học
Hướng dẫn thành công 4 luận án tiến sĩ cấp Ba, 1 luận văn Thạc sĩ (trước 1975). Công bố 200 bài và báo cáo khoa học trên các tạp chí chuyên ngành. Có 5 công trình được đưa vào sản xuất. Xuất bản giáo trình: Hóa học đại cương, Nhiệt động hóa học.
Khen thưởng
Huy chương cành cọ hàn lâm khoa học Pháp. Huân chương Lao động hạng Ba. Huy chương vì sự nghiệp Đại đoàn kết dân tộc. Huy chương về sự nghiệp giáo dục. Huân chương vì sự nghiệp Khoa học và Kỹ thuật. Huy chương về thế hệ Trẻ. Kỷ niệm chương về sự nghiệp Dân vận.
Ghi chú đặc biệt : Anh Hạnh tôi đã học trường Taberd Saigon, vô tình tôi lật xem quyển kỷ yếu Taberd năm đó, thì ngạc nhiên mà thấy môn nào thầy Sơn cũng đứng hạng nhất, nhất tất cả mọi môn. Sau này khi ông dạy tôi tại hai trường Đại học Sư Phạm và Đại học Khoa học Saigon, tôi đã thán phục mà nhắc lại điều này. Chưa nói đến khi tôi đưa hai bạn, một Pháp, một Mỹ tới gặp ông, ông đã nói cả hai thứ tiếng rất trôi chảy, khiến chúng tôi mê luôn (Ông có 2 bằng tiến sĩ, một Mỹ, một Pháp).
GS. TS. CHU PHẠM NGỌC SƠN đã rất nhiều lần giúp cho đất nước về phương diện khoa học HÓA HỌC, thông qua các báo cáo :
1/ KHẲNG ĐỊNH: “Thủ phạm gây nhiễm bẩn nước sinh hoạt từ nhà máy nước Tân Hiệp là vi khuẩn sắt và mangan”cacthaytoi
2/ Ngày 18/7/2006, GS.TS. Chu Phạm Ngọc Sơn - Phó chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học & kỹ thuật - Chủ tịch Hội Hóa học TP.HCM cho biết: “Để xác nhận thêm nguyên nhân gây nhiễm bẩn nước sinh hoạt.
3/ GS- TS Chu Phạm Ngọc Sơn, Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật TPHCM cho rằng, viện nghiên cứu đi vào hoạt động sẽ giúp Bianfishco nâng cao chất lượng thuỷ sản từ vùng nuôi đến bàn ăn, đáp...
4/ Lần này, GS Chu Phạm Ngọc Sơn đã khẳng định chắn chắn: Vi khuẩn...Ảnh: HOÀNG ANH THƯ
5/ GS ChuPhạm Ngọc Sơn cho biết: Tình trạng nước nhiễm bẩn trên...
6/ Biết vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm, nhưng... vẫn làm sản xuất nào cũng biết là vi phạmATVSTP. Thế nhưng, bất chấp tất cả, họ vẫn làm vì...tiêu dùng? Theo GS-TS Chu Phạm Ngọc Sơn(Trung tâm Đào tạo và Phát triển sắc ký TPHCM) lo ngại rằng khi tái chế sử dụng lại các...
(Trích: Blog Võ Hiếu Nghĩa  http://vhnghia40.blogspot.com)

_______________________________________________________________________________________________________________________

Giáo sư Trần Văn Tấn
Giáo sư Trần Văn Tấn sinh ngày 24/6/1930 tại An Hóa, Bến Tre. Từ trần ngày 1/10/2013. Hưỏng thọ 84 tuổi.
Học Trung Học tại Collège Le Myre de Viler tỉnh Mỹ Tho (sau đổi tên là Nguyễn Đình Chiểu). Du học Pháp năm 1949. Cử Nhân Giáo Khoa Toán tại Faculté des Sciences, Toulouse. Tiến Sĩ Toán Vật Lý Lý Thuyết, Toulouse 1959. Khoa Trưởng ĐHSP/SG từ 1963 đến 1975. (Theo GS Võ Hiếu Nghĩa)
GS Trần Văn Tấn đã từng là Viện Trưởng Viện Đại Học Sàigòn trước 1975. GS Trần Văn Tấn 4 lần sang viếng Hoa Kỳ nhân họp mặt cựu SV ĐHSP/SG tại Nam California và tại Dallas, Texas.
Hơn 10 năm trước, cá nhân chúng tôi cũng đã gặp Thầy Khoa Trưởng nhân dịp Thầy ghé Houston thăm gia đình GS Nguyễn Văn Trường và gặp gỡ các môn sinh ĐHSP/SG...
               THAYTVTAN
Hàng ngồi, từ trái qua phải: Gs Trần Thế Hiển, Gs Trần Văn Tấn...

Người viết: Nguyễn Công Danh (Cựu SV ĐHSPSG, ban Anh Văn, 1967-1970)
__________________________________________________________________________________________________________________

Giáo sư Nguyễn Trần Trác
Ngyễn Trần Trác





Giáo sư Nguyễn Trần Trác cũng là cựu SV ĐHSP Sàigòn, ban Lý Hóa, khóa 1963-1967.
Sau khi ra trường năm 1967, ông về dạy tại nhiệm sở đầu tiên là trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân ở Mỹ Tho.
Năm 1972, ông tốt nghiệp Tiến sĩ Vật Lý tại Đại học Khoa học Sàigòn. Sau đó, ông sang Pháp tu nghiệp.
Trở về Việt Nam, ông làm giảng sư tại Đại học Sư phạm Sàigòn, môn Vật Lý.
Sau tháng 4/75, ông tiếp tục giảng dạy ở Đại học Sư phạm Tp HCM đồng thời kiêm chức Trưởng phòng Quan hệ Quốc tế trong 10 năm trước khi rời chức vụ nầy.
Dù đã đến tuổi về hưu, hiện nay Gs Nguyễn Trần Trác vẫn còn giảng dạy tại một số trường Đại học ở Sài gòn.
__________________________________________________________________________________________________________________
Giáo sư Nguyễn Văn Trường
nguyenvantruong





Tiểu sử:
  • · Cử Nhân Giáo Khoa Toán. Cao Học Toán
  • · Nguyên Quyền Giám Đốc Học Vụ Ban Khoa Học Trường ĐH Sư Phạm Huế
  • · Nguyên Tổng Giám Đốc Trung Tiểu Học vàBDGD
  • · Nguyên Tổng Trưởng Giáo Dục, Nội Các Trần Văn Hương
  • · Nguyên Ủy Viên Giáo Dục, Nội Các Nguyễn Cao Kỳ
  • · Nguyên Giảng Sư Trường ĐH Sư Phạm Huế và Sài-Gòn
  • · Nguyên Giảng Viên các Trường ĐHĐà Lạt, Vạn Hạnh

Giáo sư Nguyễn Văn Trường sinh năm 1930 tại Vĩnh Long, đã từng theo học các trường trung học Phan Thanh Giản, Cần Thơ, và Collège Le Myre de Vilers, Mỹ Tho, trước khi sang Pháp học tiếp ở Toulouse.
Ở Pháp về giáo sư Trường dạy ở Đại Học Huế. Năm 1963, sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, giáo sư Nguyễn Văn Trường được bổ nhiệm làm Tổng Giám Đốc Trung Tiểu Học và Bình Dân Giáo Dục thay thế ông Trần Bá Chức được lên làm Đổng Lý Văn Phòng cho Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục lúc bấy giờ là giáo sư Phạm Hoàng Hộ. Giáo sư Nguyễn Văn Trường là ông Tổng Giám Đốc Trung Tiểu Học và BDGD trẻ nhất từ trước đến giờ. Ông là một trong những người thuộc lớp trẻ đi vào hàng ngũ lãnh đạo giáo dục. Từ lúc này trở đi sự lãnh đạo trong lãnh vực giáo dục ở Nam Việt Nam đã được chuyền sang tay của nhiều người trong giới trẻ. Ít lâu sau khi cụ Trần Văn Hương làm Thủ Tướng lần đầu, giáo sư Trường được mời làm Tổng Trưởng bộ Giáo Dục. Năm 1966 thời của Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, giáo sư Trường lại được mời ra làm Tổng Trưởng Giáo Dục lần thứ hai. Thuộc nhóm người trẻ, có đầu óc cởi mở, tiến bộ, giáo sư Nguyễn Văn Trường rất thiết tha, rất tích cực với nền giáo dục nước nhà. Rất tiếc là ông phải nắm giử vai trò lãnh đạo giáo dục ở thời hổn loạn, lại chỉ ở địa vị Tổng Trưởng một thời gian ngắn thành ra những ý tưởng cải cách cũng như những dự án phát triển lớn lao của ông chưa có cơ hội thực hiện được. Dù vậy những biện pháp của ông đưa ra để đối phó với tình thế rối ren, chấn chỉnh học đường, đem lại trật tự kỷ cương cho ngành giáo dục trong thời hổn loạn này cũng rất đáng được nói đến. Chúng ta còn nhớ là sau khi ông Diệm bị đảo chánh các trường trung học ở Sài Gòn và một số các tỉnh lỵ lớn khác phải trải qua một thời kỳ hết sức tối tăm. Một số học sinh do sự xúi dục của những nhóm đầu cơ chính trị đã nổi lên đả đảo hiệu trưởng và ban giám đốc các trường đưa đến tình trạng hổn loạn, vô kỷ luật, vô trật tự, khiến cho việc dạy dỗ của giáo sư và việc học hành của học sinh bị trỡ ngại rất nhiều. Trước tình trạng hổn loạn đó ông Tổng Giám Đốc Nguyễn Văn Trường cương quyết dùng biện pháp mạnh đem lại kỷ luật và trật tự cho học đường với bất cứ giá nào. Theo lệnh mới của ông Tổng Giám Đốc thì khi học sinh bất tuân kỷ luật thì hiệu trưởng báo cáo thẳng về ông Tổng Giám Đốc để ông ký giấy đuổi học. Ông muốn chính ông lãnh trách nhiệm đuổi học sinh như vậy để tránh áp lực địa phương, tránh sự trả thù hay làm khó dễ ban giám đốc nhà trường. Nhờ biện pháp cứng rắn đó mà kỷ luật, trật tự ở học đường được hồi phục nhanh chóng. Nhưng ông cũng đã rất đau lòng khi phải ký giấy đuổi một học sinh con của một cô giáo cũ của ông ở Vĩnh Long. Pháp bất vị thân, ông đã làm hết bổn phận của mình đối với chính sách giáo dục do chính mình đề xướng.
Khi cụ Trần Văn Hương ra làm Thủ Tướng Chính Phủ lần thứ nhất cụ đã mời giáo sư Nguyễn Văn Trường làm Tổng Trưởng Giáo Dục. Thời này cũng là thời hổn loạn ở ngoài xã hội cũng như trong học đường. Một số đảng phái đầu cơ chính trị xúi giục học sinh biểu tình, chống dối chính phủ, tạo cảnh bất ổn trong một số các trường trung học lớn ở Đô Thành như Petrus Ký, Gia Long v v... khiến cho an ninh trật tự bị xáo trộn, chẳng còn dạy dỗ học hành gì được cả. Một lần nữa giáo sư Nguyễn Văn Trường phải dùng biện pháp cứng rắn đối phó với tình thế. Thông Cáo Số Một ra đời. Đây là lần đầu tiên Bộ Giáo Dục có thông cáo đặc biệt như vậy. Thông cáo này đặt chính trị ra ngoài học đường, nghĩa là không có chính trị ở trong hay chen vào học đường. Các đảng phái chính trị phải trả kỷ luật và trật tự lại cho trường học để cho việc học hỏi dạy dỗ được thực hiện tốt đẹp. Chính sách đặt chính trị ra ngoài học đường là một chính sách đúng về phương diện giáo dục, đúng với tinh thần nhân bản là một trong ba phương chăm giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa đã được đề xướng trước đây trong hội nghị giáo dục toàn quốc và được Quốc Hội chấp thuận ban hành. Theo đúng tinh thần này không ai có quyền, dù với bất cứ danh nghĩa tôn giáo hay đảng phái nào, xúi giục học sinh trung học chưa đủ tuổi trưởng thành, lợi dụng sự hăng say bồng bột của tuổi trẻ, đẩy họ vào những công cuộc chống đối, đấu tranh cốt để phục vụ cho quyền lợi riêng tư của phe nhóm mình. Dùng tuổi trẻ vị thành niên, dùng học đường (trường trung học) làm phương tiện phục vụ cho chính trị là một hành động trái với tinh thần nhân bản, tinh thần tôn trọng giá trị của con người, xem con người là một cứu cánh chớ không phải là một phương tiện.
Công lớn nhất của giáo sư Trường là đem lại cho dân Hậu Giang trường đại học Cần Thơ. Công lớn này thật khó quên đối với người dân Miền Tây Nam Phần. Tuy nhiên giáo sư Trường là người rất khiêm nhường, ông không muốn nhận công lao đó là của ông, ông thường nói là ông chẳng có công gì cả, kết quả tốt đẹp đó có được là nhờ sự tranh đấu mạnh mẽ của nhiều anh em trẻ như Lê Thanh Liêm, Lâm Phi Điểu, Nguyễn Trung Quân, Trần Ngọc Thái, Phan Công Minh, Đào Khánh Thọ v v... và nhất là kỷ sư Võ Long Triều. Kỷ sư Võ Long Triều là người Bình Đại, Kiến Hòa. Ông có học Le Myre de Vilers một thời gian ngắn trước khi sang Pháp lấy bằng kỷ sư canh nông. Trong chánh phủ Nguyễn Cao Kỳ ông Triều giữ chức vụ Ủy Viên Thanh Niên. Ông đã dùng uy tín và tình cảm cá nhân để áp lực ông Kỳ cho Viện Đại Học Cần Thơ ra đời.
Giáo sư Trường có những suy tư rất sâu sắc về giáo dục. Tiếc là thời gian ông làm ở Bộ Giáo Dục quá ngắn, lại nhằm lúc hổn loạn luôn, thành ra ông không có cơ hội để thực hiện những ý tưởng sâu sắc của ông. Những ý tưởng đó ông đã ghi lại trong bài viết “Trường Phan Thanh Giản Cần Thơ Tự Truyện” đăng trong giai phẩm Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm kỷ niệm 80 năm thành lập, và trong hai bài viết của giáo sư về tôn sư trọng đạo cũng như về cách dạy của giáo sư trong quyển sách này.
_________________________________________________________________________________________________________________
Giáo sư Mai Thanh Truyết


thầy Mai Thanh Truyết




Giáo sư Mai Thanh Truyết tốt nghiệp Tiến sĩ Hóa Học Đại học Besancon, Pháp. Trong thời gian ở Pháp, Ông làm Assistant phụ trách Thí nghiệm Hóa Vô cơ tại Institut de Chimie, Besancon, Pháp.
Tại Việt Nam, trước năm 1975, Ông là Giảng sư (Associate-Professor), Trưởng ban Hóa học, Đại học Sư phạm Sài Gòn, đồng thời là Giám đốc Học vụ, Viện Đại học Cao Đài, Tây Ninh.

Từ lúc định cư ở Hoa Kỳ, ông đã từng giữ các chức vụ:
• Nghiên cứu cho Chương trình thuộc Viện Y tế Quốc gia (NIH) của Đại Học Y Khoa Minnesota.
• Giảng dạy Hóa học Đại cương tại King College, Fresno, California.
• Giám đốc Phòng thí nghiệm và Giám đốc Xử lý Phế thải, Chemical Waste Management, Kettleman City, California.

Giáo sư Mai Thanh Truyết  hoạt động trong các lãnh vực chuyên môn như:
* Giám đốc nhà máy xử lý nước thải (Leachate Treatment Plant), BKK Corporation, West Covina, California.
* Giám đốc Kiểm soát An toàn và Phẩm Chất (QA/QC), Weck Laboratories Inc., Industry City, California.
* Giám đốc Kỹ thuật, Environment Consultant Services, Los Angeles.
Trong công tác Hội đoàn, Ông là Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Hội Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam tại Hoa kỳ (VASTS).

Để biết rõ hơn về các hoạt động của Giáo sư Mai Thanh Truyết, xin mời vào trang web:http://maithanhtruyet.blogspot.com



Giáo sư Lê Văn

giáo sư Lê Văn
họp mặt Nam Cali 19-4-2009
Giáo sư Lê Văn chụp hình chung với các cựu Giáo sư và cựu Sinh viên ĐHSP Sàigòn Nam Cali nhân ngày họp mặt 19/04/2009.



Giáo sư Trần thị Khánh Vân



Cô Tràn Thị Khánh Vân

Trước 30/04/1975, Bà là Giáo sư Sử học (chuyên về Sử Đông Nam Á) tại trường Đại học Sư Phạm Sàigòn.
Hiện đang định cư tại Mỹ với phu quân là Giáo sư Phạm Cao Dương.





Giáo sư  Nguyễn Thanh Vân



thầy Nguyễn Thanh Vân

Ông là giáo sư phụ trách môn Sinh học Thực Vật thuộc ban Khoa học tại trường Đại học Sư Phạm Sàigòn. Một trong những hoạt động mà Giáo sư Nguyễn Thanh Vân đã thực hiện cho sinh hoạt tập thể của Liên khoa Đại học Sư phạm Sàigòn là đảm nhiệm chức Trưởng đoàn chuyến du khảo "Đi trên quê hương" do Ban Đại diện ĐHSP tổ chức vào năm 1973. Dịp nầy, ông đã hướng dẫn các sinh viên cả hai ban Văn chương và Khoa học của ĐHSP Sàigòn đi thăm đất nước trên chuyến tầu Hải quân HQ 500, tuyến đường Sàigòn-Rạch Giá-Hà Tiên-Hòn Sơn Ray.

Hiện nay Giáo sư Nguyễn Thanh Vân đang hưu trú tại Pháp.

Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen